Ngày 21/3/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân”.
Hội thảo có sự tham dự của Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú; Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (DNNVV) Nguyễn Văn Thân; lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học; đại diện các bộ, ngành, tổ chức tín dụng (TCTD) và các cơ quan thông tấn – báo chí.
![]() |
Hội thảo có sự tham dự của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú và các chuyên gia kinh tế hàng đầu |
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân có vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế đất nước. Bám sát chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, ngành Ngân hàng luôn đồng hành hỗ trợ khu vực tư nhân tiếp cận tài chính để phát triển sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Các chính sách tài chính linh hoạt, đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã thúc đẩy sự phát triển về số lượng, quy mô và chất lượng của khu vực tư nhân.
Mặc dù phát triển mạnh mẽ, khu vực kinh tế tư nhân vẫn gặp khó khăn về quy mô và năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong hội nhập quốc tế. Trong bài viết mới đây, Tổng Bí Thư Tô Lâm nhấn mạnh, một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay đầu tư nước ngoài, mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước; nhất là phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thủ tướng Chính phủ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy, sáng tạo và sức mạnh từ doanh nghiệp, đồng thời đề xuất sử dụng đòn bẩy ngân hàng để khai thác tiềm năng và tạo động lực phát triển đất nước.
![]() |
Hội thảo thu hút đông đảo sự tham gia của các khách mời, đại biểu |
Với định hướng trên, Hội thảo là cơ hội quan trọng để đánh giá những thành tựu của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời là diễn đàn để nhà quản lý, nhà khoa học, nhà ngân hàng, doanh nghiệp cùng thảo luận tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu vực này.
![]() |
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu khai mạc Hội thảo |
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú:
Hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thuận lợi là hoạt động thường xuyên và luôn được chú trọng
Qua những phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm và các cấp lãnh đạo, vai trò của kinh tế tư nhân là rất quan trọng. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân, thể hiện tinh thần hành động quyết liệt tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu 8% mà Chính phủ đã đặt ra, nếu có điều kiện có thể tăng lên hai con số, tức là trên 8%, tạo tiền đề cho giai đoạn sắp tới theo chủ trương của Đảng, Quốc hội. Đây là nhiệm vụ rất lớn đặt ra cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương để đất nước “cất cánh”.
Muốn phát triển kinh tế tư nhân, có nhiều điều kiện, yêu cầu đặt ra. Trong đó, vấn đề vốn ngân hàng, vốn tín dụng… là những khía cạnh cần làm rõ. Tôi đánh giá rất tích cực và đánh giá rất cao việc lựa chọn chủ đề và tổ chức Hội thảo hôm nay với sự tham gia của các chuyên gia “kỳ cựu”, các nhà lãnh đạo hiệp hội, ngành hàng. Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân” ngày hôm nay đã thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN, Hiệp hội DNNVV Việt Nam và các TCTD trong việc lắng nghe ý kiến, cùng nhau thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân trong tiếp cận tín dụng nói riêng.
Tại Hội nghị ngày hôm nay, chúng ta cùng lắng nghe đại diện các doanh nghiệp, hiệp hội và tổ chức tín dụng chia sẻ về tầm quan trọng của phát triển kinh tế tư nhân và các giải pháp để thúc đẩy vốn đầu tư cho kinh tế tư nhân bứt phá trong thời kỳ mới. Qua tham luận của các đại biểu tham dự cho thấy kinh tế tư nhân đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân không chỉ giúp mở rộng sản xuất, thương mại, dịch vụ mà còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đến nay, với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm khoảng 85% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (chiếm đến 98%), sức cạnh tranh thấp, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Nhiều doanh nhân chưa có kỹ năng quản trị cao, tư duy kinh doanh vẫn thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn. Các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 2%, tập trung vào một số ngành chủ lực như sản xuất thép, ô tô, công nghệ cao,…
![]() |
Toàn cảnh Hội thảo |
Tại Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững.
Bên cạnh đó, ngày 6/3 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân, thể hiện tinh thần hành động quyết liệt trong việc tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu 8% mà Chính phủ đã đặt ra.
Xác định phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược, chính sách lâu dài của quốc gia, thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
Trước hết phải nói đến những giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, tính thanh khoản cung ứng vốn, điều hòa lượng vốn trong nền kinh tế… Đây đều là những giải pháp thiết thực để hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp tư nhân là chính. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm 98% số lượng doanh nghiệp) bao gồm cơ cấu thời hạn trả nợ, giãn, hoãn nợ, kéo dài thời hạn cho vay, giảm lãi suất trong, sau đại dịch Covid-19, các đợt thiên tai bão lũ để doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, duy trì hoạt động sản xuất. Đây đều là những chính sách đã đi vào cuộc sống rất thiết thực.
Với sự nỗ lực, vào cuộc của NHNN và hỗ trợ tích cực của các NHTM, hoạt động cấp tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các TCTD đạt khoảng gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế. Trong đó, có 100 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng đối với DNNVV với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế; có 208.992 DNNVV còn dư nợ. Có thể nói hầu hết các TCTD cả trong nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính vi mô… đều có mối quan hệ cho vay trực tiếp với khối doanh nghiệp tư nhân, trong đó có DNNVV chứ không phải ngân hàng chỉ dành cho phân khúc lớn cho doanh nghiệp nhà nước.
Con số có 208.992 DNNVV còn dư nợ cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhưng các doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Năm 2025 dự báo cho thấy tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, xung đột địa chính trị, căng thẳng thương mại gia tăng và chi phí vay cao ở nhiều quốc gia. Các khó khăn nêu trên sẽ tác động lớn đến nền kinh tế có độ mở lớn như nước ta, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân.
Những nội dung trao đổi hôm nay để nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân bứt phá, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới.
Đảng và Nhà nước quan tâm rất lớn đến khối doanh nghiệp tư nhân. Điều này thể hiện thông qua có rất nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đã được ban hành, trong điều kiện kinh tế khó khăn nhưng vẫn dành nguồn lực ở điều kiện cho phép dành cho doanh nghiệp tư nhân, DNNVV. Tuy nhiên, vẫn có những vấn đề được đặt ra rất khó để kinh tế tư nhân bứt phá…
Giám đốc Economica Việt Nam – TS. Lê Duy Bình:
Để kinh tế tư nhân chuyển mình vượt bậc, trở thành trụ cột của nền kinh tế
Trong gần bốn thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, chuyển mình từ một thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ, manh mún thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế.
![]() |
TS. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica |
Về quy mô, theo số liệu của Cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. Khu vực này tạo việc làm cho khoảng 85% lao động cả nước.
Như vậy, kinh tế tư nhân hiện nay quyết định tới số lượng và chất lượng của hơn 50% GDP của Việt Nam. Chúng ta không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều trên công nghệ, đổi mới và sáng tạo nếu như khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm hơn nửa nền kinh tế này không tăng trưởng ở tốc độ cao, không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ, và đổi mới sáng tạo.
Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong tổng cầu và do vậy đóng vai trò quyết định tới tốc độ tăng trưởng. Sự đóng góp này thể hiện qua đầu tư tư nhân, tiêu dùng của doanh nghiệp và các cơ sở kinh tế và đóng góp của kinh tế tư nhân cho xuất nhập khẩu.
Từ góc độ tổng cầu, khu vực kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp tới gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Cũng từ góc độ đầu tư vốn là một cấu phần quan trọng của tổng cầu, khu vực tư nhân đang đóng vai trò quan trọng về đầu tư. Kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp 56% tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là tỷ trọng rất cao so với mức 28% của khu vực kinh tế nhà nước và 16% của khu vực FDI. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỷ USD vào năm 2025, đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỷ USD hay xấp xỉ 56%. Đầu tư công sẽ chỉ đóng góp khoảng 36 tỷ USD, khu vực FDI khoảng 28 tỷ USD, và đầu tư khác khoảng 14 tỷ USD.
Như vậy, chỉ cần đầu tư của kinh tế tư nhân tăng 1% sẽ mang lại mức tăng về giá trị tuyệt đối tương đương với việc đầu tư công phải tăng 2,5% và đầu tư nước ngoài phải tăng 3,5%. Tác động của tăng trưởng đầu tư tư nhân trong nước đối với tổng cầu lớn hơn rất nhiều so với đầu tư từ khu vực công và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khác với đầu tư công và đầu tư nước ngoài vốn có những hạn chế để mở rộng về khối lượng như các giới hạn về trần nợ công, về áp lực đối với ngân sách nhà nước hay về các cân nhắc về tỷ trọng cũng như chất lượng đầu tư FDI trong bài toán tổng thể về đầu tư của nền kinh tế, tiềm năng mở rộng đầu tư từ khu vực kinh tế trong nước là rất lớn nếu nhìn vào tài sản hiện vẫn được người dân nắm giữ dưới các tài sản khác như vàng, ngoại tệ, đất đai, tiết kiệm gửi trong hệ thống ngân hàng. Mở rộng đầu tư tư nhân sẽ nâng cao được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn
Các doanh nghiệp tư nhân đã vượt qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực FDI và khu vực hành chính công về phương diện tạo thu nhập cho người lao động và khoảng cách này ngày một nới rộng hơn. Hiện nay khu vực kinh tế tư nhân đang tạo việc làm và sinh kế cho hơn 80% lực lượng lao động. Việc làm do các doanh nghiệp khu vực tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người lao động dịch chuyển từ các công việc có lương thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp sang làm việc ở những ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn. Hiện nay, một công nhân trong các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong nước có thu nhập cao gấp 3 lần so với một nông dân bình thường. Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân không chỉ tạo sinh kế, việc làm và còn tạo cơ hội để việc làm tốt hơn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân, đóng góp cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Các doanh nghiệp tư nhân đóng góp đáng kể vào sự mở rộng của phạm vi che phủ của bảo hiểm xã hội và các chương trình an sinh xã hội. Do tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước suy giảm và lao động trong khu vực nhà nước và khu vực công sẽ có xu hướng giảm xuống đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp lại bộ máy các cơ quan nhà nước như hiện nay, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đóng một vai trò chủ chốt trong việc tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội trên cả nước từ 9,2 triệu năm 2010 lên khoảng 17,5 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 38,08% lực lượng lao động trong độ tuổi; và khoảng 14,3 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi tính đến năm 2023.
Với những nỗ lực đang tiếp diễn về cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách khu vực công, rõ ràng là kinh tế tư nhân sẽ là khu vực chịu trách nhiệm chính cho mục tiêu đến năm 2025 có khoảng 45% và đến năm 2030 có khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội theo tinh thần Nghị quyết 28-NQ/TW.
Đây là một số ví dụ cho thấy kinh tế tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Kể từ khi nền kinh tế bắt đầu công cuộc Đổi mới, mô hình tăng trưởng trong thời gian vừa qua đã giúp Việt Nam tận dụng được những lợi thế về lao động giá rẻ, tài nguyên đất đai, vị trí địa lý, khả năng nắm bắt cơ hội từ thương mại quốc tế. Chúng ta đã thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài FDI để đóng góp cho sự tăng trưởng của đất nước.
Cũng trong quá trình này, khu vực doanh nghiệp nhà nước cũng được đổi mới và tiếp tục lớn mạnh. Hiện nay, khu vực doanh nghiệp nhà nước nắm giữ tài sản gần 4 triệu tỷ đồng, sở hữu 20,5% nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp. Thế nhưng, đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước không đồng đều, tập trung vào một số doanh nghiệp lớn như Petrovietnam hay Viettel. Khu vực doanh nghiệp nhà nước sở hữu nguồn vốn lớn nhưng sử dụng chưa hiệu quả, chưa được như mong muốn và chưa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng của đất nước.
Cùng với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tư nhân trong đó nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân đã trở thành một lực lượng quan trọng và dần dần trưởng thành. Tuy nhiên, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước còn lỏng lẻo và nền kinh tế còn tồn tại hiện tượng ba nền kinh tế trong một nền kinh tế. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn được đánh giá là dưới tiềm năng và cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa để trở thành nhân tố quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển dịch sang mô hình kinh tế dựa nhiều trên hiệu quả, kinh tế tri thức, dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đây là thời điểm mà chúng ta cần phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế. Vì thế, khu vực tư nhân phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn và có tính chất bền vững hơn.
Cơ cấu của các doanh nghiệp tư nhân đăng ký chính thức có sự mất cân đối về cơ cấu. Trong số 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, phần lớn doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trong khi số lượng doanh nghiệp cỡ vừa còn hạn chế. Hiện nay, xấp xỉ 97% các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm 1,5% tổng số. Đáng chú ý, các doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,5%, tạo ra cơ cấu doanh nghiệp “bất thường” khi so sánh với cơ cấu của khu vực doanh nghiệp khác như tại Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Hiện tượng “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa”, tức là tình trạng các doanh nghiệp có quy mô trung bình có số lượng rất ít ỏi, là một điều đáng quan ngại.
“Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng là một biểu hiện cho thấy có rất ít doanh nghiệp nhỏ đã lớn lên để trở thành doanh nghiệp quy mô vừa do hạn chế về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và do những khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Các doanh nghiệp nhỏ thiếu năng lực cũng như động cơ và tham vọng phát triển về quy mô. Hiện tượng “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng cho thấy sẽ không có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa sẽ phát triển thành doanh nghiệp quy mô lớn trong trung hạn. Vấn đề “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cần phải được giải quyết do nguyên tắc thường thấy là các công ty lớn hơn có khả năng tốt hơn để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô để hoạt động hiệu quả hơn và mang lại năng suất cao hơn cho nền kinh tế. Nó cũng khiến nền kinh tế thiếu lực lượng dự bị để trở thành DN lớn và từ đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Bên cạnh đó, tính phi chinh thức của khu vực kinh tế tư nhân còn rất cao. Bên cạnh 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, còn có hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hàng trăm ngàn cá nhân kinh doanh, buôn bán, sản xuất nhỏ lẻ không đăng ký. Về quy mô, theo số liệu của Cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. Các chủ thể này thuộc khu vực kinh tế tư nhân tuy đóng vai trò quan trọng như vậy, song lại có địa vị pháp lý không rõ ràng.
Trên thực tế, Bộ luật Dân sự chỉ còn duy trì tư cách chủ thể của cá nhân và pháp nhân. Tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác sẽ được quy về cá nhân và quan hệ đại diện giữa các cá nhân đó. Trong khuôn khổ pháp luật hiện hành từ năm 2015, hộ kinh doanh không được công nhận là một bên trong các hợp đồng giao dịch thương mại và không phải là pháp nhân. Vì lí do đó, hộ kinh doanh cũng không được tham gia các cuộc đấu thầu cạnh tranh, gặp khó khăn trong giao kết hợp đồng. Trên cơ sở Bộ luật Dân sự, các quy định về tài chính, tín dụng, ngân hàng, hợp đồng cùng nhiều lĩnh vực khác cũng không còn công nhận địa vị pháp lý của hộ kinh doanh là một bên trong hợp đồng dân sự. Giao dịch với ngân hàng, tổ chức tín dụng, công ty tài chính cũng được quy về quan hệ với cá nhân là chủ hộ kinh doanh hơn là hộ kinh doanh đó. Vì vậy, việc vay ngân hàng không được đứng tên hộ kinh doanh. Thay vào đó, hộ kinh doanh thực hiện vay vốn dưới hình thức hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và chủ hộ kinh doanh với tư cách cá nhân. Do vậy, khó khăn cũng phát sinh khi giao kết hợp đồng dân sự dưới tên hộ kinh doanh.
Để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, cần có các chính sách có tính kiến tạo để doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức chuyển đổi thành doanh nghiệp, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, để các doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao được năng lực và trở thành động lực, hạt nhân tăng trưởng của một ngành, một khu vực hay một cụm doanh nghiệp.
Sự tập trung gần đây và khu vực kinh tế tư nhân dường như mới chủ yếu là vào các doanh nghiệp tư nhân được đăng ký chính thức, đặc biệt là các tập đoàn doanh nghiệp tư nhân lớn. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần quan tâm mạnh mẽ hơn nữa tới các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tới vấn đề phát triển các doanh nghiệp cỡ vừa và tới khu vực cơ sở kinh tế, các chủ thể kinh doanh vẫn đang được coi là phi chính thức hoặc bán chính thức như hộ kinh doanh và các cá nhân kinh doanh. Phát triển được các chủ thể kinh tế ở khu vực này có ý nghĩa quan trọng không kém đối với việc phát huy được vai trò của các doanh nghiệp lớn, tập đoàn tư nhân lớn.
Để kích hoạt tiềm năng vô cùng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta cần những quyết sách để nuôi dưỡng tinh thần doanh nghiệp, để quyền tự do kinh doanh được củng cố mạnh mẽ hơn nữa và doanh nghiệp được thực sự được phép tự do làm những điều pháp luật không cấm. Những quyết sách đó sẽ tạo nền tảng để quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Phương thức điều hành của cơ quan quản lý dựa nhiều hơn trên các nguyên tắc, công cụ thị trường hơn là các quyết định hành chính.
Các quyết sách đối khu vực kinh tế tư nhân cần đưa ra định hướng để hệ thống pháp luật cần được xây dựng theo hướng không chỉ phục vụ mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước, mà còn đóng vai trò kiến tạo để khơi thông nguồn lực, xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, chi phí thấp và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp luật phải sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ và cơ chế thị trường trong huy động, phân bổ nguồn lực, khai thông được nguồn lực để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống pháp luật sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư vào khoa học – công nghệ, và ứng dụng đổi mới sáng tạo. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết lập các cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ. Những quyết sách đó sẽ là nền tảng để nhanh chóng giới thiệu và áp dụng các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox), các chính sách dành cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cũng như các biện pháp hỗ trợ hấp thụ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành được hệ sinh thái để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các ý tưởng kinh doanh của các doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ.
Cùng với đó, hệ thống pháp luật cũng cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật, và hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Đồng thời, các tổ chức và định chế vận hành bộ máy thực thi chính sách cũng được cải cách. Quá trình tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền sẽ được đẩy mạnh để bộ máy nhà nước sẽ được tổ chức theo hướng phục vụ doanh nghiệp và người dân, thay vì chỉ đơn thuần đóng vai trò quản lý hành chính. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển, thể hiện qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ công, đẩy nhanh tiến độ xử lý thủ tục hành chính, và nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định.
Những quyết sách như vậy sẽ giúp doanh nghiệp thấy họ được hoạt động trong môi trường an toàn, được pháp luật bảo vệ và bao dung khi thất bại, và khi thất bại, họ có cơ hội làm lại. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ phấn khởi, hồ hởi trong sản xuất, kinh doanh, hào hứng đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, vào ý tưởng, mô hình kinh doanh mới… Đồng thời sẽ đẩy mạnh hơn nữa kinh thần khởi nghiệp, bảo vệ mạnh mẽ hơn nữa doanh nhân, doanh nghiệp khi họ triển khai những ý tưởng kinh doanh mà chưa có tiền lệ song pháp luật không cấm, từ đó sẽ thúc đẩy tinh thần dám chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào đổi mới sáng tạo thông qua nhiều cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hơn nữa trong rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật.
Những quyết sách như vậy cũng sẽ khẳng định và củng cố vai trò của kinh tế tư nhân trong nước là trụ cột chính và động lực chính của nền kinh tế, đặc biệt là trong nỗ lực đạt được tốc độ tăng trưởng cao và để nền kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh mẽ, vững chắc sang một nền kinh tế thu nhập cao, dựa trên đổi mới, sáng tạo, năng suất lao động, giá trị gia tăng cao và hàm lượng tri thức lớn.
Coi kinh tế tư nhân là trụ cột chính và động lực chính cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, phồn vinh, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ gần hơn, khả thi hơn, dễ được hiện thực hoá hơn khi có sự chung tay của người dân, của khu vực kinh tế tư nhân trong nước.
Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO Nguyễn Thanh Khiết:
Minh bạch thông tin để doanh nghiệp dễ tiếp cận vốn ngân hàng
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp, tạo ra hơn 60% việc làm và đóng góp đáng kể vào GDP. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Các nguyên nhân chính bao gồm thiếu tài sản đảm bảo, hồ sơ tài chính chưa minh bạch… Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần triển khai các giải pháp đồng bộ từ phía ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
![]() |
Ông Nguyễn Thanh Khiết – Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO |
Nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính và minh bạch thông tin của doanh nghiệp. Xây dựng, cải thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, áp dụng công nghệ và AI trong kế toán và quản lý tài chính, các lĩnh vực tác nghiệp khác. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, có kiểm toán độc lập để tạo niềm tin với ngân hàng. Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ với các kế hoạch tác nghiệp khác và phương án sử dụng vốn hiệu quả để thuyết phục ngân hàng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng nên thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt như khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của doanh nghiệp thay vì chỉ tập trung vào tài sản đảm bảo.
Cải tiến quy trình thẩm định tín dụng theo hướng đơn giản, minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ: Áp dụng mô hình thẩm định tín dụng theo rủi ro, kết hợp đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp bằng các tiêu chí linh hoạt, giảm bớt yêu cầu giấy tờ không cần thiết và tự động hóa một số bước xét duyệt để tăng tốc độ giải ngân.
Ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) vào đánh giá tín dụng: Ngân hàng có thể tận dụng dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên dữ liệu giao dịch, hóa đơn điện tử và lịch sử thanh toán. Điều này giúp tăng tính chính xác trong quyết định tín dụng và rút ngắn thời gian duyệt vay, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn nhanh chóng.
Đồng thời, phát triển mạnh hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo: Chính phủ và các tổ chức tài chính cần tăng cường vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng phạm vi bảo lãnh để giúp nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Đồng thời, cần cải tiến quy trình bảo lãnh để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí khi tiếp cận vốn.
Thúc đẩy các mô hình tài chính thay thế để mở rộng kênh huy động vốn như thuê tài chính (Leasing), tín dụng chuỗi cung ứng: Các doanh nghiệp có thể vay dựa trên hợp đồng đầu vào, đầu ra, giúp họ duy trì hoạt động sản xuất mà không cần tài sản thế chấp; Crowdfunding (gọi vốn cộng đồng); P2P Lending (cho vay ngang hàng); Kết nối trực tiếp nhà đầu tư và doanh nghiệp, giảm bớt các yêu cầu khắt khe của ngân hàng và giúp doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn dễ dàng hơn…
Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức liên quan hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức tín dụng phát triển sản phẩm tài chính phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng chương trình đào tạo nâng cao năng lực tài chính và quản trị cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp họ tiếp cận và sử dụng vốn hiệu quả hơn; thiết lập cơ sở dữ liệu tín dụng tập trung để doanh nghiệp có lịch sử tín dụng tốt dễ dàng tiếp cận vốn hơn.
Việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ phụ thuộc vào doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ ngân hàng, tổ chức tài chính và cơ quan quản lý nhà nước. Chúng ta cần chung tay triển khai các giải pháp đồng bộ để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp nhiều hơn vào sự thịnh vượng của nền kinh tế Việt Nam.
BÀN TRÒN THẢO LUẬN
Giải pháp để thúc đẩy vốn đầu tư cho kinh tế tư nhân tăng tốc, nắm bắt cơ hội trong kỷ nguyên mới
![]() |
Quang cảnh phiên Bàn tròn thảo luận |
TS. Lê Duy Bình: Đến thời điểm này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế. Ông đánh giá thế nào về vai trò của vốn ngân hàng trong việc khơi dậy tiềm năng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa? Ông có thể chia sẻ thêm về những giải pháp ngân hàng có thể triển khai để hỗ trợ các doanh nghiệp này tiếp cận vốn dễ dàng hơn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững?
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Nguyễn Văn Thân: Đầu tiên, cần cảm ơn ngành Ngân hàng đã luôn đồng hành cùng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ lệ dư nợ của doanh nghiệp có thể nói rất là cao. Dư nợ cao chứng tỏ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang phát triển.
![]() |
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Nguyễn Văn Thân |
Đối với doanh nghiệp, cần phải nghĩ đến việc đảm bảo như thế nào để ngân hàng yên tâm cho vay. Tôi rất đồng ý với ông Nguyễn Thanh Khiết về những giải pháp để nâng tầm chất lượng dịch vụ cho vay của ngân hàng. Không còn cách nào khác là qua con đường khoa học công nghệ. Như Phó Thống đốc Đào Minh Tú vừa gợi ý, cho vay thì các doanh nghiệp cần liên kết với nhau. Đó là vấn đề trọng tâm.
Về phía các ngân hàng thương mại, có hiện tượng là các nhà băng đang tập trung cho vay doanh nghiệp lớn. Cũng cần thông cảm bởi áp lực từ doanh thu tới các ngân hàng là rất lớn. Như vậy, doanh nghiệp nhỏ và vừa muốn vay cần tập trung vào liên kết thành một địa chỉ, thông qua Hiệp hội để giới thiệu các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tới ngân hàng.
Điều này mang lợi ích về mặt thời gian. Các ngân hàng cho vay cũng yên tâm hơn rất nhiều. Cần phải liên kết, sát cánh để Hiệp hội có thể giúp các doanh nghiệp. Có rất nhiều các phương án để doanh nghiệp huy động vốn, ngoài ngân hàng thì còn các quỹ… Nhưng vẫn cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ tiếp cận hơn so với đi vay ở ngân hàng.
TS. Lê Duy Bình: Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra rằng cần có chiến lược rõ ràng để phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Ông đánh giá như thế nào về chiến lược phát triển khu vực này trong thời gian tới và những điểm cần cải cách để thực sự tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế? Với mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế, chiến lược cụ thể nào để tháo gỡ các rào cản pháp lý, tài chính cho doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới?
TS. Nguyễn Đình Cung – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM): Vai trò của doanh nghiệp tư nhân rất quan trọng, không chỉ qua các con số. Ở những vùng miền kinh tế của đất nước, đặc biệt là những vùng khó khăn, những doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đều có mặt. Ở những ngành nghề trước đây chúng ta thường nói mà chỉ có doanh nghiệp nhà nước có thể làm thì bây giờ doanh nghiệp tư nhân làm tốt hơn.
Tuy nói như vậy nhưng cho đến nay, doanh nghiệp tư nhân vẫn phát triển thụ động và đối mặt với rất nhiều rào cản, trong đó lớn nhất là thể chế. Doanh nghiệp tư nhân chưa được khuyến khích, hỗ trợ một cách có hệ thống để khơi dậy hết tiềm năng.
![]() |
TS. Nguyễn Đình Cung – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) |
Trong bối cảnh mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, thì một chiến lược rõ ràng để phát triển kinh tế tư nhân là điều tất yếu. Chiến lược này phải xác định sứ mệnh của kinh tế tư nhân không chỉ là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế, mà còn là lực lượng tiên phong, chủ lực trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong thực hiện những công trình quan trọng của quốc gia nhằm nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh, sức chống chịu của nền kinh tế. Hiện nay, chúng ta đang nhấn mạnh doanh nghiệp tư nhân là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế, cần tăng trưởng cao nhất. Nếu khu vực này không đạt tăng trưởng khoảng 10% thì nền kinh tế chắc chắn sẽ không đạt được mục tiêu đề ra.
Tôi nhấn mạnh đến hai trụ cột. Thứ nhất là cải cách thể chế. Tháo được “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, tạo “đột phá của đột phá” thì trọng tâm của trụ cột này phải chuyển đổi, tháo bỏ. Tháo bỏ, chuyển đổi hệ thống pháp luật chồng chéo, trùng lặp, không rõ ràng, không hiệu quả, không cụ thể, minh bạch…
Hệ thống pháp luật thiên về quản lý, “không quản được thì cấm”, tức “năng lực hiểu biết của cơ quan nhà nước đến đâu thì mở cho làm đến đó”, cần phải được chuyển sang một hệ thống pháp luật thông thoáng, tạo môi trường thực sự tự do kinh doanh, thực sự tự do sáng tạo, kinh doanh bình đẳng với một chi phí tuân thủ thấp, không gặp rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp được thể hiện hết khả năng của mình để cống hiến làm giàu cho bản thân và đất nước. Đồng thời, những tranh chấp xảy ra được giải quyết một cách công bằng, hiệu quả.
Trụ cột thứ hai, về phần vốn từ doanh nghiệp, cần tạo ra một môi trường, hệ thống chính sách hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy phát triển doanh nghiệp tư nhân. Ở đây, tạo cho họ một môi trường tiếp cận vốn, đất đai, khoa học công nghệ, dữ liệu… kịp thời, đủ lớn về quy mô và đồng bộ để họ bứt phá lên một cấp độ mới, từ siêu nhỏ đến vừa, vừa đến lớn – một ngưỡng rất khó của doanh nghiệp.
Khuôn khổ để doanh nghiệp phát triển không chỉ là vốn tín dụng, mà còn là vốn đầu tư dài hạn. Như vậy, Nhà nước cần mở ra thị trường vốn đầu tư đa dạng hơn, giảm gánh nặng cho phía ngân hàng. Phải phát triển thị trường vốn có các loại quỹ, điều mà hiện nay chúng ta đang thiếu rất nhiều. Vì thiếu nên nhiều doanh nghiệp chưa phát triển được…
Tôi hy vọng chiến lược sắp tới của Bộ Chính trị sẽ huy động hết nguồn lực của kinh tế tư nhân, hết tính sáng tạo, năng động của khu vực này, qua đó giúp tận dụng được hết cơ hội phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và cả nền kinh tế.
TS. Lê Duy Bình: Ở vai trò là huyết mạch, cung ứng vốn cho nền kinh tế, xin Phó Thống đốc Thường trực cho biết, các chính sách của NHNN đã và đang triển khai trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa? Theo Phó Thống đốc, cần có giải pháp nào để cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân, tăng cường năng lực cạnh tranh và tận dụng cơ hội trong kỷ nguyên mới?
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú: Những chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và của NHNN nói riêng để thúc đẩy kinh tế tư nhân đã được quan tâm triển khai và xác định rất rõ từ rất nhiều năm. Ngành Ngân hàng cũng xác định rõ doanh nghiệp tư nhân là một trong những đối tượng, thành phần dứt khoát phải có sự quan tâm rất lớn trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động của Ngành.
![]() |
Quá trình thực hiện ngay từ năm 2017, khi có Nghị quyết 10 và các chủ trương chính sách của các cấp lãnh đạo, xác định kinh tế tư nhân là động lực rất lớn của nền kinh tế. Ngành Ngân hàng đã có hàng trăm tổ chức tín dụng hỗ trợ vốn cho kinh tế tư nhân với dư nợ gần 7 triệu tỷ đồng trong tổng dư nợ của toàn nền kinh tế 15,8 triệu tỷ đồng (chiếm gần 44%). Chỉ riêng trong năm 2024, doanh số cho vay đạt khoảng 23 triệu tỷ đồng, doanh số thu nợ khoảng gần 21 triệu tỷ đồng. Với lượng vốn chiếm 44% tổng dư nợ thì doanh số cho vay với kinh tế tư nhân là rất lớn.
Đành rằng việc phát triển kinh tế tư nhân còn có những vướng mắc, nhưng chất lượng tín dụng ở khu vực này lại tốt và cao hơn, độ rủi ro thấp, an toàn cao hơn. Đây cũng là nền tảng để ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh tín dụng ngân hàng trong thời gian tới.
Về các giải pháp trong thời gian qua, phải kể đến ngành Ngân hàng đã có những chính sách giảm lãi suất, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định là một trong năm đối tượng được hưởng lãi suất thấp nếu đủ điều kiện tiếp cận vốn vay. Rõ rang đây là lợi thế rất lớn về lãi suất. Thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ, thủ tục tiếp cận cũng có những điều kiện tốt hơn… Tất cả những điều đó cho thấy sự bình đẳng trong chính sách, cơ chế giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, chỉ có điều kiện tiếp cận là khác nhau.
Ví dụ trong nông nghiệp, nông thôn mà đa phần là các mô hình kinh tế nhỏ lẻ, kinh tế tập thể có nhiều chính sách ưu đãi. Gần đây nhất là Nghị quyết 55 và tới đây sẽ có nhiều chính sách thông thoáng hơn, cởi mở hơn nữa. Nền kinh tế thị trường có nhiều khác biệt, nhưng Việt Nam đã có những hỗ trợ kịp thời. Đó là tiềm năng và cơ hội của kinh tế tư nhân.
Trong thời gian tới, với sự phát triển của công nghệ, kinh tế sáng tạo, ngoài những hỗ trợ đã có, NHNN đã và đang có nghiên cứu để có những giải pháp mạnh hơn cho vốn vào kinh tế tư nhân; tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm để tăng sức tiếp cận của doanh nghiệp tư nhân với vốn ngân hàng nhiều hơn nữa.
Bản thân mỗi doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, kinh tế tư nhân nói chung, cũng phải tăng cường chia sẻ. Tổ chức tín dụng cũng cần có giải pháp để mối quan hệ cộng sinh này tốt hơn.
TS. Lê Duy Bình: Ở góc độ ngân hàng có chiến lược huy động vốn ra sao để đa dạng nguồn vốn đầu tư cả ngắn, trung, dài hạn, góp phần thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân nói riêng, tăng trưởng kinh tế bền vững nói chung?
Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Bà Phùng Thị Bình: Agribank là ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước, luôn tiên phong thực hiện các chính sách của Đảng và NHNN. Trong suốt thơi gian vừa qua, tình hình dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thiên tai, bão lũ, Agribank đã thực hiện đầy đủ và tiên phong các chương trình như cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, giảm lãi suất cho vay…
Quan trọng nhất, với mục tiêu phát triển nền kinh tế đạt 8% trong năm 2025, Agribank được thông báo tăng trưởng tín dụng 13% với số tuyệt đối 230 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, với dư nợ hiện tại là 1,74 nghìn tỷ đồng thì 90% dành cho khu vực kinh tế tư nhân. Số liệu trên thể hiện chúng tôi rất quan tâm đến đối tượng khách hàng kinh tế tư nhân, đặc biệt là khi Agribank luôn gắn với sứ mệnh phát triển nông nghiệp nông thôn và nông dân.
![]() |
Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Phùng Thị Bình |
Hiện nay, Agribank đang triển khai 9 chương trình tín dụng ưu đãi dành cho tất cả các đối tượng, trong đó có 8 chương trình dành cho hộ kinh tế tư nhân, bao gồm doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất kinh doanh tiêu dung,… Trong các chương trình này, lãi suất được áp dụng thấp hơn cho vay thông thường từ 1-2% và có các chương trình ưu đãi cho xuất nhập khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị. Để các hộ kinh tế tư nhân, cụ thể là doanh nghiệp nhỏ và vừa, xích lại gần với ngân hàng hơn, Agribank triển khai liên kết với hộ nông dân, hội phụ nữ.
Trong thời gian tới, Agribank mong muốn sẽ cấp vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để có được các phương án kinh doanh hiệu quả, có nguồn trả lại ngân hàng. Trong bối cảnh hiện tại, với mục tiêu phát triển kinh tế 8% và giai đoạn tiếp theo tăng trưởng hai con số thì áp lực huy động vốn rất là lớn. Với thực tế Agribank là ngân hàng có vốn 100% nhà nước thì vốn để tăng vốn điều lệ là từ ngân sách nhà nước cấp. Agribank đã có các đề xuất lên Quốc hội được giữ lại lợi nhuận nộp về ngân sách nhà nước để tăng vốn.
Ngoài ra, Agribank đang thực hiện cơ cấu nguồn vốn hợp lý để giữ được lãi suất huy động hỗ trợ doanh nghiệp. Agribank luôn thấu hiểu và đồng hành cùng doanh nghiệp trong các bước phát triển mới, sau các cuộc khủng hoảng, dịch bệnh, thiên tai. Do việc huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nên Agribank tập trung vào 3 đối tượng: nguồn vốn huy động từ dân cư (chiếm 80%), nguồn vốn không kỳ hạn, phát hành trái phiếu.
Bà Lê Thị Thúy Sen, Tổng biên tập Thời báo Ngân hàng:
Nỗ lực hết mình để làm “cầu nối” thông tin mang lại lợi ích và giá trị tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp
Để tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp, người dân, thực hiện Nghị quyết 18, Thời báo Ngân hàng thực hiện tái cấu trúc với 3 đơn vị hợp nhất là Thời báo Ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng, Cổng thông tin điện tử NHNN – các cơ quan truyền thông chủ lực của ngành Ngân hàng. Với vai trò quan trọng đó, đơn vị có trách nhiệm truyền tải thông tin, nắm bắt chính sách để mang lại những giá trị truyền thông chính sách cho cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân. Trên hết là đưa những hội nghị, hội thảo thực sự có giá trị, đưa ra những vấn đề được dư luận quan tâm; làm rõ tính ưu việt của các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, sau khi sáp nhập, chúng tôi đã tổ chức Hội thảo “Ứng dụng AI trong chuyển đổi số cho các cơ quan báo chí”, không chỉ cho báo chí ngành Ngân hàng, mà còn cho nhiều phóng viên ở các cơ quan báo chí khác. Với hội thảo hôm nay về chủ trương thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, chúng tôi hiểu ở đây cũng có trách nhiệm của vốn ngân hàng đóng góp cùng nền kinh tế, bên cạnh các nguồn vốn khác. Và chúng tôi sẽ không dừng lại ở đây. Với vai trò là cơ quan báo chí chủ lực của ngành Ngân hàng, chúng tôi có trách nhiệm đa dạng hóa nội dung, hình thức để Thời báo Ngân hàng là kênh thông tin trung gian, là “cầu nối” giữa doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng, để từ chủ trương, chính sách đến các sản phẩm dịch vụ của ngành Ngân hàng đến gần với người dân, doanh nghiệp. Chúng tôi cũng sẽ nỗ lực hết mình để làm “cầu nối” mang lại lợi ích và giá trị tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp. Trong thời gian tới, Cổng thông tin điện tử NHNN sẽ cung cấp chủ trương, chính sách, những định hướng của ngành Ngân hàng đến công chúng. Với kênh thông tin hàng ngày, chúng tôi sẽ có những cải tổ để Thời báo Ngân hàng sẽ là diễn đàn mang lại nhiều giá trị thông tin. Ví dụ như phát triển 3 công cụ AI để vận hành thử nghiệm trong 2-3 tháng tới, đó là trợ lý tiếng Anh chuyên ngành về tài chính – ngân hàng, trợ lý dữ liệu để cung cấp cơ sở dữ liệu của ngành Ngân hàng đến người dân và bạn đọc, trợ lý về giáo dục tài chính có tính chất phổ cập thông tin để người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ tổ chức các hội nghị, hội thảo về các vấn đề dư luận đặc biệt quan tâm. Vì đang ở giai đoạn sơ khai nên chúng tôi sẽ “bật mí” trong thời gian tới. Chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng và rất mong nhận được sự ủng hộ của các chuyên gia, diễn giả, các cơ quan báo chí để mang lại những thông tin hiệu quả cho các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và người dân; giúp cho kênh “cầu nối” thông tin của chúng tôi đến được với người dân một cách chuẩn xác, hiệu quả. |
TS. Lê Duy Bình: Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có những nỗ lực như thế nào trong bối cảnh hiện nay để có thể cùng với ngành Ngân hàng phát triển cũng như xây dựng nền kinh tế bền vững hơn trong thời gian tới?
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Nguyễn Văn Thân: Doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể không dựa vào cung cấp vốn của ngành Ngân hàng, trong khi các cơ chế khác còn đang bất cập. Các doanh nghiệp cần lưu ý, ngân hàng cần thấy được khả năng phát triển của doanh nghiệp thì mới có thể cho vay.
Với tư cách Hiệp hội, chúng tôi sẽ triển khai hợp tác với doanh nghiệp lớn, cố gắng làm theo tinh thần giới thiệu các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi của họ. Việc liên kết cần mang lại lợi ích cho các bên, đặc biệt thông qua Hiệp hội. Để làm được điều này, cần doanh nghiệp chủ động hơn tham gia với Hiệp hội trong công tác lãnh đạo, các chi hội…
Tình hình đất nước hiện nay, không khí chính trị đang rất thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân phát triển. Mở đầu từ Tổng bí thư, còn lại thì thực hiện, phát triển như thế nào là việc của doanh nghiệp tư nhân nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng.
Biên tập viên Huy Hoàng – VTV: Các doanh nghiệp tìm đến Hiệp hội thì có cách thức nào để kết nối giữa Hiệp hội và đơn vị tại các địa phương thuận tiện, hiệu quả, kết nối theo chuỗi?
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Nguyễn Văn Thân: Thực tế hiện nay, mong muốn của chúng ta chưa thành hiện thực bởi chưa sòng phẳng với nhau. Chúng tôi sẵn sàng kết hợp với các hiệp hội kế toán, các ngân hàng để kết nối doanh nghiệp thành nhóm có cùng quyền lợi để tiến hành việc này.
Hiệp hội muốn thay mặt các cơ quan quản lý nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện cơ chế này chưa có. Hiệp hội có thể làm được nhưng cần có đơn đặt hàng. Chúng tôi cần các cơ quan truyền thông giúp lên tiếng mạnh mẽ hơn về vấn đề này…
TS Lê Duy Bình: Có thể thấy ngành ngân hàng đã có nhiều đóng góp rất lớn trong phát triển kinh tế tư nhân. Từ góc độ của một doanh nghiệp, ông đánh giá như thế nào về chính sách của Chính phủ và những nỗ lực của ngành ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân? Hiện nay, khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải là gì? Ông có những đề xuất nào để nâng cao khả năng tiếp cận vốn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp?
Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Kim Nam, ông Nguyễn Kim Hùng: Thời gian gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành hai Nghị quyết rất quan trọng đối với doanh nghiệp, doanh nhân trong tình hình mới. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, phát triển sản xuất, kinh doanh, phục hồi và tăng trưởng sau thời gian khó khăn.
![]() |
Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Kim Nam, ông Nguyễn Kim Hùng |
Tôi rất vui khi tại sự kiện hôm nay có sự góp mặt của Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, nhờ đó có thể chia sẻ những ý kiến, đánh giá của doanh nghiệp. Để triển khai hai Nghị quyết đó, doanh nghiệp hiện nay chỉ có thể tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng. Ngân hàng vẫn là “cứu cánh” quan trọng đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, để bứt phá, doanh nghiệp rất mong Bộ Tài chính và NHNN đưa ra các chương trình, chính sách hỗ trợ tài chính cho đổi mới sáng tạo. Hiện nay, ngay cả ngân hàng cũng chưa có gói vay riêng dành cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Khi có thể chế cụ thể, chúng tôi rất mong các ngân hàng dành ra một nguồn vốn nhất định cho lĩnh vực này. Doanh nghiệp muốn phát triển khoa học – công nghệ phải mất ít nhất 10 năm, nếu có sự hỗ trợ thì thời gian này sẽ được rút ngắn đáng kể. NHNN cần đề xuất với Chính phủ về một gói vay với mức lãi suất ưu đãi tốt nhất có thể. Đồng thời, NHNN có thể tiếp tục đóng vai trò đầu mối, giúp các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng trở thành đại lý của các ngân hàng thương mại…
Ngành Ngân hàng dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng chúng tôi mong muốn có thêm các chính sách về lãi suất ưu đãi, giúp doanh nghiệp có động lực đầu tư vào nhà xưởng, sản xuất, kinh doanh dài hạn.
Phó Thống đốc Đào Minh Tú trả lời trực tiếp các vấn đề đại biểu nêu: Về cơ chế gói vay dành riêng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đây đúng là câu chuyện cần đặt ra lúc này. Bản thân các ngân hàng cũng nhận thấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là những thế mạnh cạnh tranh của bất kỳ doanh nghiệp nào, nếu đi chậm trong cuộc đua này là sẽ thất bại. Để đổi mới sáng tạo thì cần phải có nguồn lực. Nhưng nếu chỉ dựa vào ngân hàng thì sẽ không đủ và chắc chắn với tính chất vốn của ngân hàng cũng không thể đảm đương được tất cả nhu cầu vốn.
Doanh nghiệp tư nhân cần có sự hỗ trợ của nhiều nguồn lực khác, như từ ngân sách, quỹ đầu tư… phù hợp với từng lĩnh vực. Thông qua Hội thảo này, chúng ta cùng nhau có những đề xuất, kiến nghị cơ chế đầu tư cho lĩnh vực này.
Về phía NHNN, chúng tôi đồng tình với đề xuất này. Các ngân hàng thương mại cũng cần quyết liệt hơn, xung phong vào lĩnh vực này, vì đây là một lợi thế cạnh tranh.
Về việc liên kết, cách đây 13 năm chúng ta đã có thí điểm cho 21 mô hình liên kết chuỗi giá trị, nhưng hầu như thất bại. Chỉ có duy nhất một chuỗi trồng hoa xuất khẩu ở Đà Lạt thành công do có doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ.
Chuỗi phải đảm bảo ai cũng có lợi ích. Nếu liên kết lỏng kẻo thì rất khó. Việc ngân hàng cho vay theo chuỗi không có tài sản đảm bảo đem đến nhiều lợi ích cho người theo chuỗi, doanh nghiệp và nền kinh tế và cả bản thân ngân hàng thương mại. Nhưng thành công phụ thuộc vào thành phần tham gia chuỗi.
Điều đáng mừng là trong 2 năm thí điểm chương trình 1 triệu hecta lúa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long vừa qua, tất cả thành phần tham gia chuỗi đều hiệu quả, ngân hàng cho vay theo chuỗi cũng rất hiệu quả. Nếu mô hình này được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực khác thì sẽ rất thuận lợi cho doanh nghiệp, nên ngành Ngân hàng rất mong muốn, vì “muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau”.
Về lãi suất, tính đến thời điểm này, mặt bằng lãi suất tương đối hài hòa, có lúc còn đi ngược với xu hướng chung của các nước nhưng có hiệu quả với đặc thù đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, những lãi suất mang tính chất ưu tiên, ưu đãi cũng vẫn được đặt ra, nhưng đến mức lãi suất 0% thì không có ngân hàng thương mại nào triển khai được, mà cần phải có “bàn tay” của Nhà nước vào cuộc tích cực.
TS. Lê Duy Bình: Quan điểm của ông như thế nào về vai trò của vốn ngân hàng đối với phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay? Có gì cần lưu ý trong vấn đề tiếp sức dòng vốn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa?
Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, TS. Lê Xuân Nghĩa: Việt Nam có khoảng 900.000 doanh nghiệp, nhưng chỉ khoảng 500 doanh nghiệp huy động vốn trên sàn chứng khoán, trong đó có một số doanh nghiệp lên sàn vì thương hiệu chứ không phải để huy động vốn. Ngay cả những nghiệp huy động vốn từ sàn chứng khoán cũng vẫn phải dựa vào vốn ngân hàng.
![]() |
Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, TS. Lê Xuân Nghĩa |
Chúng ta từng có hy vọng trong một thời gian ngắn phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, nhưng đã đến lúc phải “tỉnh ngộ”. Một tỷ phú của Việt Nam chia sẻ từng huy động được vốn trên sàn quốc tế từ Nhật Bản và Hàn Quốc khoảng 1,1 tỷ USD để trang trải một số hoạt động trong 2 năm, còn huy động vốn ở sàn trong nước rất khó. Nói ra để thấy vốn của doanh nghiệp hiện nay chủ yếu dựa vào ngân hàng thương mại và không có cách nào khác.
Trong một khảo sát tại Mỹ, tôi nhận thấy quốc gia này có cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ mà không phải là quản lý doanh nghiệp lớn hay quản lý về công nghiệp. Bởi vì, 23 triệu doanh nghiệp nhỏ của họ tạo ra một nửa GDP và giải quyết lao động cho một nửa lực lượng lao động của Mỹ… Vì vậy, nước Mỹ dành ưu tiên đặc biệt vốn cho các doanh nghiệp loại này.
Trước đây, nước Mỹ có quỹ cho doanh nghiệp vay, nhưng quản lý rất khó nên sau này bàn giao lại cho ngân hàng và chỉ còn đứng ra bảo lãnh, vì phần lớn doanh nghiệp nhỏ không có tài sản đảm bảo; đồng thời mới các chuyên gia về ngân hàng, kế toán đào tạo miễn phí, chuyên sâu cho doanh nghiệp bằng hình thức trực tuyến. Quỹ bảo lãnh vô điều kiện, chủ doanh nghiệp là nữ được bảo lãnh 80%, chủ doanh nghiệp là nam được bảo lãnh 60%. Doanh nghiệp được bảo lãnh chắc chắn sẽ được ngân hàng cho vay. Mô hình này cũng có tại một số quốc gia phát triển khác.
Bà Lê Thị Thúy Sen phát biểu kết luận Hội thảo:
![]() |
Từ các bài tham luận của chuyên gia và ý kiến trao đổi trong phần thảo luận, đặc biệt là chỉ đạo của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú, chúng tôi xin tiếp thu và sẽ tổng hợp các ý kiến trọng tâm. Những nội dung này bao gồm các giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân, các trụ cột về thể chế, huy động nguồn lực, tăng cường các gói vay để đẩy vốn vào nền kinh tế. Đồng thời, chúng tôi sẽ tổng hợp các đề xuất, kiến nghị của đại diện doanh nghiệp gửi tới ngân hàng, tổ chức tín dụng… để báo cáo lên Ban lãnh đạo NHNN trong thời gian tới.
Thoibaonganhang.vn sẽ tiếp tục cập nhật…
Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/tuong-thuat-hoi-thao-von-ngan-hang-gop-phan-thuc-day-kinh-te-tu-nhan-161619.html