(Tổ Quốc) – Tôi sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn. Hồi còn nhỏ, tôi từng đọc rất nhiều áng văn thơ miêu tả làng quê và nghe nhiều người xung quanh kể về làng xóm cùng nỗi nhớ quê của họ. Từ đó, tôi mặc định, nơi nào có đồng lúa, lũy tre, hàng cau, hàng dừa, có con sông, có mái nhà tranh, có đường đê khúc khuỷu… mới gọi là quê.
Và mỗi lần nghỉ hè hay Tết đến, nghe bạn bè trong lớp rục rịch bàn chuyện về quê, tôi chạnh lòng ngơ ngẩn buồn, nghĩ mình không có quê.
Ý nghĩ ấy theo tôi suốt một thời niên thiếu. Cho đến khi lớn lên, rời xa Sài Gòn, tôi mới nhận ra mình cũng có quê. Quê tôi không có đồng lúa, nương dâu, không có dòng sông, không cả lũy tre, bờ dừa, không có đồi cát, không có sóng biển… Quê tôi chỉ là cái xóm nhỏ nằm trong con hẻm ngoại ô thành phố, là con đường rợp bóng cây – con đường đã từng cõng tuổi thơ tôi đi qua hết một thời hoa mộng; Là những tiếng rao sáng chiều mang nhịp điệu cần lao: Là những âm thanh phố thị ồn ào, huyên náo. Ba mươi năm, 30 cái Tết xa nhà, tôi thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà của một người xa quê.
Song, có lẽ thời điểm cuối tháng Chạp, khi ngày tháng cạn dần cho năm cũ bước qua, năm mới đến, mới là lúc nỗi nhớ nhà, nhớ “quê” trong tôi da diết nhất.
Nỗi nhớ Tết của tôi thường bắt đầu bằng mùi sơn. Xóm nhà tôi hồi đó là một xóm lao động nghèo thành thị, nhà cửa hầu hết bằng cây ván cũ kỹ. Những ngày giáp Tết cả xóm đua nhau sơn lại nhà chuẩn bị đón tân xuân. Khắp xóm sực nức mùi sơn dầu pha xăng như một thứ mùi đặc trưng của Tết.
Tôi nhớ lắm ngày 23 tháng Chạp, má tôi làm lễ đưa ông Táo về trời chỉ có gói “thèo lèo cứt chuột”. Mấy chị em tôi thấp thỏm ngồi canh. “Ông Táo” vừa khuất sau cánh cổng, má tôi bưng dĩa thèo lèo xuống chia đều cho mỗi đứa được hai miếng thèo lèo nhỏ xíu cùng với một cục “cứt chuột” mè đen và một viên bông đường màu đỏ. Chỉ có vậy nhưng đó là một trời hạnh phúc vô biên của tuổi thơ tôi.
Sau đó là nỗi nhớ chợ. Chợ Tết “quê” tôi thường họp suốt ngày, suốt đêm, người buôn, kẻ bán, xe cộ, tràn kín lối đi. Hai bên đường vô chợ, dưa hấu đổ thành từng đống, “cầu vừa đủ xài” (mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài) chất giỏ này chồng lên giỏ kia… Trong nhà lồng chợ, chỗ bày bán vải vóc, quần áo, giày dép, chỗ bán đồ trang hoàng nhà cửa, phong bao lì xì, hoa nhựa, giấy bông… đỏ rực một góc chợ. Người ta chen chân sắm Tết nhưng ai nấy đều tươi cười, gương mặt rạng rỡ mặc dù ai cũng hối hả, vội vã. Hình như tiết xuân bao giờ cũng làm cho lòng người trở nên độ lượng. Người ta dễ bỏ qua cho nhau những mích lòng, hiềm khích của năm cũ, sẵn sàng diện mạo đẹp nhất để đón chào năm mới.
Đi chợ Tết với người Sài Gòn đồng nghĩa với đi chợ hoa. Chợ hoa ở đâu cũng có nhưng lớn nhất Sài Gòn là chợ hoa Nguyễn Huệ. Với người Sài Gòn chưa đi chợ hoa là chưa đi chợ Tết. Đây không chỉ là nơi mua bán hoa mà còn là nơi mê hoặc lũ trẻ con bởi âm thanh rộn ràng của tiếng chuông leng keng trên tay chú bán cà rem, bởi sắc màu của những cây kẹo bông đường, bởi những con vật ngộ nghĩnh thoăn thoắt biến hình trên đôi bàn tay khéo léo của anh thợ nặn tò he…
Sau ba mươi năm tôi trở về, chợ hoa Nguyễn Huệ không còn nữa. Tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ. Từ khi chợ hoa trở thành đường hoa. Mỗi năm đến Tết, tôi hay chọn cho mình một góc nhỏ giữa không gian tràn ngập sắc màu, lặng lẽ ngồi ngắm lũ trẻ tung tăng, tua lại một góc ký ức thời thơ ấu. Bao giờ tôi cũng cảm nhận có một chút Sài Gòn xưa cũ phảng phất trong tiết trời rời rợi gió xuân giữa lòng thành phố.
Tôi nhớ, thời khắc gia đình tôi chuẩn bị đón Tết. “Người phụ nữ quyền lực” nhất trong nhà là má tôi, năm nào cũng trổ tài với hai món gia truyền đó là nồi thịt kho tàu và khổ qua hầm. Năm nào má tôi cũng nói “Cuối năm ăn khổ qua cho khổ nó qua đi”. Nhưng không biết khổ có qua không mà năm nào má tôi cũng không bỏ qua món này. Tôi không ưa vị đắng nên không thích lắm. Nhưng thịt kho của má thì thiệt là “thần thánh”. Nước thịt sánh, trong màu cánh gián, miếng thịt vàng au, phần nạc còn nguyên mà phần mỡ rệu đến nỗi bỏ vào miệng là tan ra, béo ngậy, ăn kèm miếng dưa cải chua thanh giòn rôm rốp.
Đặc biệt là bữa cơm đoàn viên chiều ba mươi Tết – bữa cơm rước ông bà tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. Với đại gia đình tôi, từ thời khắc ấy: Tết bắt đầu. Chỉ có má tôi, ba mươi năm tôi không về là ba mươi năm trong lòng má không hề có Tết.
Đúng lúc tôi trở về, điền vào chỗ trống cho Tết đúng nghĩa đoàn viên thì các con cháu trong nhà lần lượt lớn lên, đứa đi du học, đứa định cư nước ngoài, đứa công tác xa nhà, đứa đóng quân ngoài biển đảo… Má tôi tập quen dần với sự thiếu vắng người này, người nọ trong ba ngày Tết.
Biết vậy, đêm giao thừa chúng tôi hay mở facetime (ứng dụng cho phép người dùng liên lạc miễn phí được tích hợp trong các thiết bị của Apple) kết nối với cái màn hình lớn giữa nhà cho má được nghe con cháu ở xa chúc Tết, được nhìn thấy, được nói chuyện, được lì xì cho chúng. Tiền lì xì má ghi tên từng người trên phong bao, cất giữ cẩn thận, có dịp chúng nó sẽ về nhận.
Má nói thời đại văn minh, mình cũng phải “ăn theo thuở ở theo thì”. Được thấy mặt, nói chuyện với “tụi nó”, coi như Tết không thiếu đứa nào, má vui quá. Miệng má nói vui nhưng đón giao thừa xong, ai nấy kéo nhau đi lễ chùa, má lại chân đau ở nhà, chui vô mùng, nằm ôm gối… lặng lẽ khóc.
Ngoài kia, tiếng chuông chùa ngân nga, ngân nga trong đêm trừ tịch.
Nguồn: https://toquoc.vn/tet-thi-thanh-20250126110258268.htm