TP – Quyết định 452 về quy hoạch mạng lưới trường đại học (ĐH) và sư phạm của Chính phủ đặt ra mục tiêu tới năm 2030, Việt Nam đào tạo 3 triệu sinh viên. Tuy nhiên, dư luận băn khoăn liệu thị trường trong nước có “hấp thụ” hết số lượng này?
TP – Quyết định 452 về quy hoạch mạng lưới trường đại học (ĐH) và sư phạm của Chính phủ đặt ra mục tiêu tới năm 2030, Việt Nam đào tạo 3 triệu sinh viên. Tuy nhiên, dư luận băn khoăn liệu thị trường trong nước có “hấp thụ” hết số lượng này?
Thấp so với thế giới
Quyết định 452 đặt mục tiêu quy mô cả nước trên 3 triệu người học, đạt 260 sinh viên và 23 học viên sau ĐH/vạn dân; tỉ lệ học ĐH/số người trong độ tuổi 18 – 22 đạt 33%, trong đó không tỉnh nào có tỉ lệ thấp hơn 15%. So với bản Quy hoạch ban hành năm 2007, mục tiêu lần này đặt ra vẫn thấp hơn. Tại Quyết định 121 (ban hành năm 2007), Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu đạt 200 sinh viên/vạn dân vào năm 2010; 300 sinh viên/vạn dân vào năm 2015 và 450 sinh viên/vạn dân vào năm 2020.
![]() |
Sinh viên tốt nghiệp ĐH năm 2024. Ảnh: Nghiêm Huê |
Theo Bộ GD&ĐT, quy mô đào tạo ĐH đã tăng trở lại từ năm 2019, sau quá trình suy giảm hoặc không tăng từ năm 2014 (năm có quy mô đào tạo cao nhất trong giai đoạn trước). Tuy nhiên, Bộ cho rằng, tỉ lệ 215 sinh viên/vạn dân như hiện nay còn thấp so với khu vực và thấp hơn mức trung bình của các nước thuộc khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, hiện có 38 nước thành viên). Để đạt được chỉ tiêu 260 sinh viên/vạn dân đặt ra cho năm 2030 là thách thức rất lớn cho giáo dục ĐH Việt Nam.
Trong khi quy mô đào tạo ĐH có xu hướng tăng, quy mô đào tạo sau ĐH đang thấp và không tăng trong nhiều năm qua. Đặc biệt đáng lo ngại tỉ trọng quy mô đào tạo sau ĐH khối ngành STEM (Khoa học, Kĩ thuật, Công nghệ và Toán) thấp hơn nhiều. Đội ngũ giảng viên của các cơ sở giáo dục ĐH trên toàn quốc đã phát triển nhanh cả về số lượng, trình độ và năng lực. Tỉ lệ sinh viên/giảng viên và tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng cao trong 5 năm gần đây. Nhưng các tỉ lệ này đều thấp so với chuẩn mực chung của thế giới và là điểm nghẽn lớn trong nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu.
Tương tự, số giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư đã tăng so với năm 2008, nhưng vẫn được đánh giá thấp so với cả nhu cầu trong nước và tương quan khu vực. Về năng lực nghiên cứu khoa học, mặc dù số lượng công bố quốc tế của các cơ sở giáo dục ĐH tăng rất nhanh trong những năm gần đây, nhưng đạt tỉ lệ trung bình toàn quốc vẫn thấp so với chuẩn mực chung của các trường ĐH trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, thách thức đặt ra cho ngành là phát triển về số lượng, trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên ngang tầm khu vực và thế giới.
Lo ngại AI thay thế
Tuy tỉ lệ sinh viên/vạn dân của Việt Nam hiện tại và mục tiêu đặt ra trong quy hoạch không cao nhưng những lo ngại về việc làm sau khi tốt nghiệp đặt ra bài toán không dễ với các nhà đào tạo, hoạch định chính sách. Những dự báo trí tuệ nhân tạo (AI) thay thế con người đang nóng dần trong thời gian gần đây khiến nhiều sinh viên, trường ĐH quan ngại. Ghi nhận thực tế cho thấy ngành Công nghệ thông tin đang bị ảnh hưởng mạnh nhất từ AI.
Anh Nguyễn Văn Sơn, trưởng nhóm tại một công ty thiết kế phần mềm của Nhật Bản ở Việt Nam, chia sẻ, vị trí của nhân viên thưa vắng dần. Từ một nhóm có hơn 30 thành viên, đến giờ, anh Sơn chỉ còn trong tay 5-6 nhân viên. Anh Sơn khẳng định, thiết kế phần mềm bị AI thay thế đầu tiên, nhóm của anh Sơn giờ chỉ còn những nhân viên bảo mật. “Bản thân tôi cũng dự đoán AI sẽ thay thế con người nhưng không ngờ thời gian xảy ra sớm hơn và tốc độ nhanh hơn”, anh Sơn nói. Theo thống kê, gần 70% nhà tuyển dụng dự định tích hợp AI vào quy trình tuyển dụng của mình và điều này sớm diễn ra trong năm 2025.
Việc làm trong cơ quan quản lí nhà nước thay đổi trong thời gian tới sẽ tác động đến thị trường tuyển dụng. Mục tiêu 3 triệu sinh viên vào năm 2030 có khả năng đạt được đối với các cơ sở đào tạo ĐH nhưng sự hấp thu đối với thị trường lao động nằm ngoài dự đoán của các nhà hoạch định chính sách. Bởi từ trước đến nay, Việt Nam chưa có trung tâm dự báo nguồn nhân lực. Việc mở ngành đào tạo, chỉ tiêu đào tạo do các trường tự “bốc thuốc” dựa trên các mối quan hệ thực tế. Ngay cả nhóm ngành sư phạm, dù được các địa phương khảo sát, thống kê số lượng thừa thiếu cụ thể, nhưng khi đào tạo xong, việc tuyển dụng lại phụ thuộc vào chỉ tiêu được phân bổ nên thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho hay, khi nền kinh tế phát triển thì tỉ lệ người học ĐH sẽ phải tăng. Ông Sơn cho rằng tỉ lệ 260 sinh viên và 23 học viên sau ĐH/vạn dân đã được Bộ GD&ĐT tính toán hợp lí và khả thi khi xây dựng quy hoạch. Hiện nay, tổng số người trong độ tuổi lao động có bằng cấp xấp xỉ 27%, con số này còn thấp nên cần nâng cao trình độ đội ngũ lao động kể cả trung cấp, cao đẳng và ĐH. Vì vậy, quy hoạch để phát triển, đào tạo nâng cao trình độ và kĩ năng để người lao động có thêm cơ hội việc làm, cũng như nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế.
Với yêu cầu phát triển kinh tế trong thời gian tới, ông Sơn khẳng định con số 260 sinh viên vẫn chưa đủ. Ông Sơn cho hay, trong mạng lưới này, cơ cấu nhân lực không đưa cụ thể từng ngành, bởi nhu cầu nhân lực ở các trình độ, lĩnh vực sẽ biến động rất lớn trong thời gian tới. Tại quyết định về quy hoạch, Bộ GD&ĐT tập trung trọng điểm các ngành, lĩnh vực đào tạo STEM, nhóm ngành đào tạo giáo viên, sức khỏe. Ngoài các ngành trọng điểm, quy hoạch cũng lựa chọn các cơ sở giáo dục ĐH trọng điểm.
Quyết định 452 đặt mục tiêu phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục ĐH đào tạo giáo viên đạt quy mô từ 180.000 đến 200.000 người học; phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục ĐH đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, tăng quy mô đào tạo từ 180.000 đến 200.000 người học ĐH.
Nguồn: https://tienphong.vn/sinh-vien-tang-viec-lam-giam-post1723852.tpo