Sau nhiều tháng sụt giảm liên tiếp, kể từ tháng 9/2023 tới nay, kim ngạch xuất nhập khẩu đã từng bước hồi phục. Đáng chú ý, trong tháng 11, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam ước đạt 60,88 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp con số này tăng.
Tuy nhiên, tính chung 11 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa vẫn giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 619,17 tỷ USD do sự sụt giảm trong 8 tháng đầu năm. Nhiều khả năng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong cả năm 2023 sẽ tăng trưởng âm bất chấp sự hồi phục trong những tháng cuối năm.
Xuất khẩu lấy lại đà tăng, nhập khẩu bắt đầu hồi phục
Về xuất khẩu hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,49 tỷ USD, tăng 13,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,59 tỷ USD, tăng 4,4%. Đây là điểm sáng rất tích cực khi khối doanh nghiệp trong nước đạt mức tăng trưởng cao, gấp 3 lần khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 322,50 tỷ USD, giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 85,94 tỷ USD, giảm 2,2%, chiếm 26,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 236,56 tỷ USD, giảm 7,1%, chiếm 73,4%. Mặc dù vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước nhưng mức giảm về kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng đã thu hẹp đáng kể so với mức giảm 11,6% trong 6 tháng đầu năm nay.
Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, có 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm trước như: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4,9 tỷ USD, tăng 20,2%; Điện thoại các loại và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD, tăng 3,9%; Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 4 tỷ USD, tăng 5%; Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 1,6%; Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,9%; Thủy sản đạt 800 triệu USD, tăng 1,4%; Sắt thép đạt 586 triệu USD, tăng 25,4%.
Về nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2023 ước đạt 29,8 tỷ USD, tăng 1% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,6 tỷ USD, giảm 0,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,2 tỷ USD, tăng 1,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Một tăng 5,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 4,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,6%.
Tuy nhiên, cũng giống như xuất khẩu, tính chung 11 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa lại giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước xuống còn 296,67 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 105,94 tỷ USD, giảm 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 190,73 tỷ USD, giảm 11,7%.
Trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 278,18 tỷ USD, chiếm 93,8%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 45,6%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 48,2%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 18,49 tỷ USD, chiếm 6,2%.
Một trong những điểm tích cực của kim ngạch nhập khẩu trong tháng 11/2023 là nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất tiếp tục tăng so với tháng trước đó. Cụ thể, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,6 tỷ USD, tăng 0,9%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 21,1%; sản phẩm hóa chất đạt 750 triệu USD, tăng 15,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 750 triệu USD, tăng 15,2%; hóa chất đạt 700 triệu USD, tăng 2,4%; kim loại thường khác đạt 688 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày, dép đạt 650 triệu USD, tăng 30,9%; sản phẩm từ sắt thép đạt 650 triệu USD, tăng 30,4%; cao su đạt 299 triệu USD, tăng 53%. Điều này phát đi tín hiệu tích cực về triển vọng phục hồi của sản xuất trong nước.
Đáng chú ý, so với cùng kỳ năm trước, nhiều mặt hàng cũng có kim ngạch nhập khẩu tăng đáng kể, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng tới 40% (đạt 7,9 tỷ USD); chất dẻo tăng 13,6%; sản phẩm hóa chất tăng 12,3%; sản phẩm chất dẻo tăng 13,9%; hóa chất tăng 7,8%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày, dép tăng 30,7%; sản phẩm từ sắt thép tăng 28,9%; cao su tăng 24,7%.
Tính chung trong 11 tháng năm 2023, có 43 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó có ba mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 43,3%. Trong số này, điện tử, máy tính và linh kiện đạt 79,2 tỷ USD, tăng 4,1%; tân dược đạt 3,3 tỷ USD, tăng 7,3%; hạt điều đạt 3 tỷ USD, tăng 17,6%; dây điện và cáp điện đạt 2,3 tỷ USD, tăng 4,9%; sản phẩm từ kim loại thường khác đạt 2,1 tỷ USD, tăng 11,1%; sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 1,6 tỷ USD, tăng 13,1%; thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh đạt 1,5 tỷ USD, tăng 4,9%; khí đốt hóa lỏng đạt 1,5 tỷ USD, tăng 2,7%.
Do nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu (xuất khẩu giảm 5,9%, nhập khẩu giảm 10,7%) nên cán cân thương mại của Việt Nam trong 11 tháng tiếp tục xuất siêu 25,83 tỷ USD, tăng hơn gấp đôi so với mức 10,3 tỷ USD của cùng kỳ năm trước.
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa trong 11 tháng năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 88 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 99,6 tỷ USD.
Triển vọng còn khó khăn
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp, cầu tiêu dùng toàn cầu còn yếu, hàng rào bảo hộ gia tăng, xung đột quân sự vẫn tiếp tục bùng phát ở nhiều nơi, tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới. Do kinh tế khó khăn, người tiêu dùng ở các nền kinh tế lớn là đối tác xuất khẩu của Việt Nam như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU) đều có xu hướng cắt giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm.
Bên cạnh đó, việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đơn hàng nước ngoài giảm, thị trường trong nước sức mua không lớn, chi phí đầu vào vẫn ở mức cao, khả năng tiếp cận tín dụng còn hạn chế…
Trong bối cảnh đó, để giảm bớt những khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, Bộ Công Thương chủ trương đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, trong đó có việc hoàn tất và đưa vào thực thi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Israel, ký kết FTA và hiệp định thương mại với các đối tác khác còn nhiều tiềm năng (UAE, MERCOSUR…) để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng.
Mặt khác, Bộ sẽ hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các FTA, đặc biệt là các hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA, để đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp giấy chứng nhận xuất xứ, các cơ hội và cách thức tận dụng cơ hội từ các hiệp định này.
Bộ Công Thương sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đàm phán với Trung Quốc mở cửa thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới…; Nâng cao hiệu quả và điều tiết tốt tốc độ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu thuộc biên giới giữa Việt Nam–Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ; chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch.
Ngoài ra, Bộ cũng chủ trương tăng cường cảnh báo sớm các vụ kiện phòng vệ thương mại; hướng dẫn doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện; kịp thời thông tin cho doanh nghiệp, hiệp hội về nhu cầu, quy định mới… của thị trường./.
Hoàng Hà