(NLĐO) – Tàu De Lanessan của Viện Hải dương học có mặt trên khắp các đảo ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là minh chứng chủ quyền của Việt Nam
Thông tin chính thức được Viện Hải dương học cho hay tàu nghiên cứu biển mang tên De Lanessan của Viện Hải dương học Đông dương (nay là Viện Hải dương học- Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam) hoạt động từ năm 1925-1942.
Năm 1922, Toàn quyền Đông Dương F.M. Baudoin ký sắc lệnh thành lập Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương (tiền thân của Viện Hải dương học ngày nay) tại Nha Trang và bổ nhiệm Tiến sĩ Armand Krempf làm Giám đốc sở.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, Chính phủ Pháp đã trang bị cho sở con tàu nghiên cứu biển mang tên De Lanessan. Tàu có trọng tải 750 tấn, được đóng để phục vụ nghiên cứu nghề cá và hải dương học trong khuôn khổ dự án của TS. A. Krempf do Chính phủ Pháp tài trợ.
Tàu được hạ thủy tại Bordeaux ngày 21-6-1924, sau hành trình 63 ngày, tàu cập cảng Hải Phòng ngày 7-11-1924.
Tàu có đầy đủ các thiết bị hiện đại, lưới đánh bắt tốt nhất theo chuẩn Châu Âu có sử dụng động cơ, có thể thả lưới ở các vùng nước sâu. Trên boong tàu có các dụng cụ để thu mẫu hải dương học, tàu có 1 phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu động thực vật biển và sinh vật phù du.
Ngoài ra tàu còn có 1 khoang rộng, có các khu vực để thực hiện nghiên cứu sản phẩm sau thu hoạch với các máy móc tiên tiến thời đó. Đó là một máy xử lý rất nhanh và dễ dàng các sản phẩm cá tươi thành bột cá, đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng và điều kiện bảo quản. Một máy ly tâm hơi nước có thể tách chiết nhanh mỡ cá và các loài động vật biển khác, sau đó xử lý bảo quản. Một máy có thể xử lý các nguyên liệu để sản xuất nước mắm. Một tủ lạnh lớn để cấp đông sâu các sản phẩm cá tươi; các thiết bị để xử lý và tiệt trùng các sản phẩm cá sau thu hoạch.
Đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan gồm thuyền trưởng là ông Dauguet, máy trưởng là ông Pépin, phụ trách hậu cần là ông Aubry. Ông Krempf có nhiệm vụ quản lý hoạt động của tàu, tuy nhiên khi ông Krempf đi sang Pháp ông Tollard được giao quyền quản lý.
Các hoạt động thu mẫu vật cho Bảo tàng do ông Gruvel phụ trách và ông Chabanaud (chuyên gia về cá) trợ lý, chuyên gia về cá chình là ông Schmidt đến từ Đan Mạch, ông Lemoine – giáo sư địa chất Bảo tàng Muséum d’Histoire Naturelle de Paris phụ trách xây dựng bản đồ nghề cá dựa trên các yếu tố địa lý và sinh thái.
Ảnh đoàn thủy thủ tàu De Lanessan chụp ở Viện Hải dương
Cuối tháng 3 năm 1925, tàu bắt đầu chuyến khảo sát nghiên cứu đầu tiên. Ngày 7-4-1925, tàu bắt đầu khảo sát Vịnh Bắc bộ. Từ tháng 4-1925 đến 4-1930, tàu đã thực hiện 52 chuyến khảo sát, thu mẫu 577 trạm ở vùng biển sâu trên thềm lục địa Việt Nam, Vịnh Bắc bộ, vịnh Thái Lan, quần Đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, sông Mê Kông, Biển hồ Campuchia, vùng biển đảo Borneo Indonesia (chuyến 21 từ ngày 2 đến 14-9-1926, đây là chuyến đi xa nhất của tàu).
Tháng 6-1926, tàu De Lanessan tiếp tục đi nghiên cứu tại quần đảo Hoàng Sa. Trong vòng hơn một tháng, tàu đã đưa các nhà khoa học đến các đảo: Tri Tôn, Đá Lồi, Bạch Quy, Phú Lâm, đảo Cây, Linh Côn, rạn Bông Bay, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm để làm những khảo sát về độ sâu, nhiệt độ, dòng chảy, địa chất, một số khu hệ động thực vật trên đảo và xung quanh đảo. Nhật ký của các nhà khoa học cho thấy, trên các đảo này có rất nhiều chim biển và các nhà khoa học đã tìm thấy mỏ phốt phát được tạo nên bởi phân chim với trữ lượng khoảng 8 triệu m3.
Tháng 7-1927, tàu De Lanessan khảo sát tại các đảo: An Bang, Đá Tây, Đá Chữ Thập, Ba Bình, Loại Ta, Đá Subi, Thị Tứ, cụm đảo Song Tử thuộc quần đảo Trường Sa. Các nhà khoa học đã khảo sát nền đáy, thu mẫu động vật và địa chất, đo độ sâu… và thu được nhiều dữ liệu quan trọng. Tiếp đó, năm 1930, Viện Hải dương học Đông Dương (tên mới của Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương) đã phối hợp với Hải quân Pháp khảo sát, nghiên cứu tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (An Bang, Đá Đông, Ba Bình, Song Tử, Thị Tứ…), trong đó khảo sát đáy san hô, thu mẫu sinh vật, mẫu cát san hô và phát hiện ra lớp phốt phát dày 30cm cùng khu hệ chim biển dày đặc ở đây.
Sau năm 1930, tàu De Lanessan tiếp tục có nhiều chuyến khảo sát ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Toàn bộ thông tin về các chuyến khảo sát của tàu De Lanessan từ năm 1925-1929 được xuất bản trong Báo cáo của Viện Hải dương học Đông dương “ION Note 17: Campagnes du “De Lanessan”
Sau đó, từ tháng 4 năm 1933, tàu De Lanessan tiếp tục khảo sát quần đảo Hoàng Sa và vịnh Thái Lan cùng với các tàu hải quân Pháp. Tàu De Lanessan, tàu Alerte và Astrolabe khảo sát quần đảo Trường Sa, phía Tây Palawan, tiến hành đo đạc chế độ nhiệt học ở vùng biển quần đảo Trường Sa.
Năm 1934-1935, tàu nghiên cứu sự tương tác giữa khí hậu ở bán đảo Đông dương với chế độ thủy học ở biển Đông Việt Nam, thêm nội dung nghiên cứu độ mặn trong nghiên cứu chế độ thủy văn của biển Đông. Từ đó thành lập bộ bản đồ chế độ thủy văn ở biển Đông và vịnh Thái Lan.
Năm 1937, trong chuyến khảo sát Hoàng Sa bằng tàu De Lanessan đã xác định vị trí xây dựng ngọn hải đăng cho tuyến hàng hải quốc tế tại đảo Hoàng Sa. Tàu đã đề xuất các cơ sở khoa học để xây dựng quy hoạch đảo Hoàng Sa (Documentation sur les iles Paracels et Spratly, 1953).
Từ những kết quả này, tháng 3-1938 thành lập Trạm quan trắc thủy văn ở quần đảo Hoàng Sa (phối hợp với Nha khí tượng), đã thu được số liệu về nhiệt độ và độ mặn từ tháng 8-1938 đến tháng 9-1939 (ION Rapport 1938-1947, Annexes, Plance VI: Bảng đo nhiệt độ và độ mặn nước tầng mặt quần đảo Hoàng Sa từ tháng 8-1938 đến 9-1939).
Dựa trên các kết quả đo đạc, nghiên cứu các yếu tố khí tượng thủy văn và động lực vùng biển Đông và vùng thềm lục địa, các nhà khoa học của Viện đã có những công trình và được công bố.
Đó là tác giả Krempf A. (1926, 1927, 1928, 1929) công bố những kết quả đo đạc, nghiên cứu các yếu tố khí tượng thủy văn bề mặt và các tầng sâu từ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến vịnh Bắc bộ, thềm lục địa phía Nam và vịnh Thái Lan trong những năm 1929-1933.
Tác giả Chevey P. & Carton P. (1934) đã công bố công trình nghiên cứu về dòng chảy và các kết quả nghiên cứu đo đạc về khí tượng thủy văn trên biển Đông. Các tác giả đã phát hiện ra dòng nước ngầm với nhiệt độ 20-21oC chảy từ Bắc vào Nam.
Tác giả Chevey P. (1933-1934), Krempf A. et Chevey P. (1936) đã mô tả hệ dòng chảy nóng tầng mặt và hệ dòng chảy lạnh tầng sâu thường trực dọc ven bờ Việt Nam theo chiều Bắc-Nam ngay cả trong mùa gió Tây Nam tạo nên sự đối kháng giữa hai khối nước này. Khối nước lạnh dưới 25oC đã đi xa hơn xuống phía Nam, trong khi khối nước nóng trên 250C lại đi xa hơn về phía Bắc… Những kết quả này có thể được coi là những dữ liệu đầu tiên liên quan đến hiện tượng nước trồi trong khu vực ven biển Việt Nam sau này tiếp tục được nghiên cứu kỹ hơn bởi các nhà khoa học Mỹ (Chương trình NAGA) và Việt Nam.
Tác giả Serène R. (1957) công bố báo cáo nghiên cứu vật lý hải dương của Việt Nam tại Hội nghị UNESCO tổ chức tại Tokyo năm 1955.
Về nghiên cứu khí hậu có các công trình công bố chính thức về khí hậu Đông Dương và xoáy thuận nhiệt đới trên biển Đông của tác giả: Bruzon E., Carton P. (1930); Bruzon E., Carton P., Romer A. (1950).
Clip tư liệu về tàu De Lanessan được lưu trữ tại Viện Hải Dương học Nha Trang
PGS.TS ĐÀO VIỆT HÀ – Viện trưởng Viện Hải dương học: Với nguồn thu thập được từ các chuyến khảo sát, Viện Hải dương học Đông Dương đã xuất bản và triển lãm 4 bản đồ về Biển Đông tại Triển lãm quốc tế thuộc địa tại Paris năm 1931. Trong đó có bản đồ về trạm vị các chuyến khảo sát của tàu De Lanessan trên Biển Đông. Ngoài ra, trong các báo cáo thường niên, Viện đã công bố bản đồ về độ sâu ở nhóm đảo Trường Sa (năm 1930), bản đồ về sự hình thành tập đoàn san hô ở các đảo: Ba Bình, Loại Ta, Thị Tứ, đá Subi và cảnh báo các vùng nguy hiểm khi đánh bắt cá (năm 1933).
Nguồn: https://nld.com.vn/hoang-sa-truong-sa-qua-dau-tich-nghien-cuu-bien-cua-tau-de-lanessan-196250127152653831.htm