Trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được Nhà nước thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có chất lượng.
Với những trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) dành cho học sinh dân tộc thieur số (DTTS) bậc tiểu học và THCS thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội ĐBKK, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của giáo dục vùng đồng bào DTTS, MN. Hiện nay, toàn quốc 1.161 trường PTDTBT ở 29 tỉnh, thành phố trong đó có 425 trường PTDTBT cấp Tiểu học, 256 trường PTDTBT liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, 480 trường PTDTBT cấp Trung học cơ sở với số lượng 249.369 học sinh bán trú.

Bên cạnh đó, còn có 1.913 trường phổ thông có học sinh bán trú ở 30 tỉnh, thành phố với số lượng 284.000 học sinh bán trú, hệ thống trường PTDTBT đã và đang làm thay đổi chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, MN. Sự phát triển nhanh về quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng của các trường PTDBT đã khẳng định được vai trò to lớn của hệ thống trường này trong việc huy động tối đa HS tiểu học và THCS trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tỷ lệ học sinh đi học không chuyên cần, tỷ lệ HS lưu ban. Từ đó, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần quan trọng vào việc củng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS, từng bước nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS, MN. Cũng giống như HS trường PTDTNT, HS trường PTDTBT được quyền lựa chọn có thể đi về gia đình trong ngày, trong tuần tùy theo điều kiện.
Các địa phương, các cơ sở giáo dục tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để duy trì và nâng cao chất lượng huy động trẻ em, học sinh đến trường, tăng tỉ lệ trẻ em, học sinh được học 2buổi/ngày và ăn ở bán trú; tạo các điều kiện để huy động tối đa trẻ em, học sinh trong độ tuổi đến trường, nhất là trẻ em, HS có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em khuyết tật được đến trường và hoàn thành chương trình giáo dục, thực hiện đảm bảo các chính sách hỗ trợ học tập đối với trẻ em, học sinh vùng đồng bào DTTS, MN.
Hiện nay, toàn quốc có 04 trường dự bị đại học gồm Trường DBĐH dân tộc Trung ương Việt Trì, Trường DBĐH dân tộc Sầm Sơn, Trường DBĐH dân tộc Trung ương Nha Trang, Trường DBĐH thành phố Hồ Chí Minh) và 01 trường PTDTNT trực thuộc Ủy ban Dân tộc có dạy học hệ dự bị đại học (Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc với quy mô khoảng 3.000 học sinh dự bị/năm. Bên cạnh đó, còn có 04 khoa dự bị đại học dân tộc thuộc các trường đại học (Trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Trà Vinh, Học viện Dân tộc) với chức năng tạo nguồn tuyển sinh cho các trường này.
Công tác bồi dưỡng DBĐH trong giai đoạn vừa qua có vai trò to lớn trong việc tạo nguồn đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực người DTTS, góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh ở vùng đồng bào DTTS, MN. Nhiều học sinh trường DBĐH được chuyển tiếp vào học tập trong các trường đại học, các đẳng, tốt nghiệp ra trường đã trở thành các nhà khoa học, quản lý, doanh nhân… giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương.
Tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân của cả nước từ 79,5% trở lên theo từng cấp học, tuy nhiên, các vùng Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ có tỷ lệ kiên cố hóa thấp hơn bình quân của cả nước; về tỷ lệ phòng học/lớp đối với cấp THCS và THPT đã đáp ứng yêu cầu.
Việc quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục có nơi còn chưa phù hợp, chưa đáp ứng được nhu cầu đến trường của trẻ em, học sinh. Một số địa phương thực hiện dồn ghép các cơ sở giáo dục một cách cơ học gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Tiến độ quy hoạch tại các địa phương còn chậm hoặc một số địa phương đã có quy hoạch nhưng chậm đầu tư cho các cơ sở giáo dục.

Chương trình đã thể hiện sâu sắc sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với ngành giáo dục nói chung những địa bàn, địa phương vùng núi, vùng DTTS và các địa bàn khó khăn nói riêng, được nhân dân trong vùng ủng hộ và đánh giá rất cao. Chương trình đã cụ thể hóa định hướng của Quốc hội, các chương trình mục tiêu góp phần đảm bảo cơ sở vật chất cho các trường PTDTNT và trường PTDTBT ở các địa phương tham gia Chương trình đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các DTTS, có ý nghĩa hết sức quan trọng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm và được Chính phủ phê duyệt nhằm hỗ trợ phát triển KT-XH của các địa phương, vùng miền đang gặp nhiều khó khăn[1]. Các kết quả mang lại từ Chương trình đã góp phần xóa bỏ ranh giới giữa các vùng miền, tạo điều kiện cho con em người DTTS, vùng khó khăn được hưởng thụ các dịch vụ giáo dục như vùng đồng bằng, vùng thành phố. Nhiệm vụ của Chương trình nhằm đảm bảo các điều kiện tối thiểu nơi ăn, ở và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập cho con em đồng bào vùng núi, vùng DTTS, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn. Đối tượng thụ hưởng của Chương trình là các trường tiểu học, THCS có HS bán trú tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, tỷ lệ huy động HS đến trường và chất lượng giáo dục còn thấp, nguy cơ HS bỏ học cao. Nguồn vốn của Chương trình được triển khai đã cải thiện rất lớn về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các trường, đảm bảo được các điều kiện, sinh hoạt cho HS bán trú và điều kiện giảng dạy, học tập cho GV, HS.
Các trường được đầu tư đã có các công trình nhà ở, nhà ăn, khu vệ sinh cho HS khang trang, sạch sẽ, tạo điều kiện cho các em học sinh ở bán trú có môi trường sinh hoạt, học tập đảm bảo hợp vệ sinh và an toàn. Nhiều sở GDĐT đã có các chỉ đạo trong thực hiện nuôi dưỡng HS theo tiêu chí “3 tập trung”: ở tập trung, ăn tập trung và quản lý tập trung với phương châm giúp các em có “6 hơn ở nhà” đó là: ăn ngon hơn, vui hơn, an toàn hơn, lao động tốt hơn, ở tốt hơn và học tập tốt hơn… Qua đó, HS ở bán trú có được môi trường giáo dục tốt hơn. Những kết quả nổi bật của Chương trình nêu trên đã góp phần thu hút con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, con em đồng bào DTTS đến trường, giảm tỷ lệ HS bỏ học và thu hút được các GV về các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện KT-XH khó khăn; làm thay đổi nhận thức trong CBQLGD, GV, phụ huynh và HS.
Việc triển khai những nhiệm vụ cụ thể của Chương trình góp phần thực hiện chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển KT-XH giữa các vùng miền, góp phần xóa bỏ khoảng cách giữa miền xuôi và miền núi, góp phần giúp đỡ đồng bào dân tộc yên tâm định cư, phát triển ổn định và bền vững. Hiện nay, mô hình trường/điểm trường có HS bán trú ngày càng tăng do được tổ chức học 2 buổi/ngày, thời lượng học và phương pháp dạy học tốt hơn, được hỗ trợ chi phí học tập. Nhờ vậy, chất lượng giáo dục được nâng cao, góp phần quan trọng trong việc giảm tỷ lệ HS lưu ban, bỏ học, HS nghèo, HS ở vùng KT-XH đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập tốt hơn.
Những kết quả nổi bật của Chương trình nêu trên đã góp phần thu hút con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, con em đồng bào DTTS đến trường, giảm tỷ lệ HS bỏ học và thu hút được các GV về các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện KT-XH khó khăn; làm thay đổi nhận thức trong CBQLGD, GV, phụ huynh và học sinh.
Công Đảo