DNVN – Bạn có bao giờ tự hỏi vì sao mình không nhớ được những ký ức thời thơ ấu? Dù cố gắng thế nào, bạn cũng không thể nhớ lại những trải nghiệm từ giai đoạn đầu đời? Một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng không phải những ký ức đó không tồn tại, mà đơn giản là chúng ta không thể truy xuất chúng khi đã trưởng thành.
Công trình nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Science
vào ngày 20/3, tiến hành theo dõi 26 em bé trong độ tuổi từ 4,2 đến 24,9 tháng.
Các bé được chia làm hai nhóm: một nhóm dưới 12 tháng tuổi và nhóm còn lại từ
12 – 24 tháng tuổi.
Trong thử nghiệm, các bé được đặt vào máy fMRI để theo dõi
phản ứng khi xem một loạt hình ảnh đặc biệt, mỗi hình xuất hiện trong khoảng
hai giây. Các nhà khoa học tập trung quan sát hoạt động của hồi hải mã, vùng
não chịu trách nhiệm về trí nhớ, cảm xúc và hệ thần kinh tự chủ.
“Hồi hải mã là một cấu trúc nằm sâu trong não bộ, không thể
quan sát được bằng các phương pháp thông thường. Vì vậy, chúng tôi đã phát triển
một phương pháp tiếp cận mới để có thể thực hiện thí nghiệm trí nhớ trên trẻ em
trong máy MRI… Trước đây, những nghiên cứu dạng này chủ yếu thực hiện khi trẻ
đang ngủ do trẻ sơ sinh thường xuyên cử động, khó tuân theo hướng dẫn và có thời
gian chú ý ngắn”, Tiến sĩ Nick Turk-Browne, giáo sư tâm lý học tại Đại học Yale
và là tác giả chính của nghiên cứu, chia sẻ qua email.
Tiến sĩ Simona Ghetti, chuyên gia tâm lý học tại Đại học
California, Davis, người chuyên nghiên cứu về sự phát triển trí nhớ ở trẻ em,
cho biết những nghiên cứu trước đây đã chứng minh trẻ sơ sinh có khả năng mã
hóa ký ức. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của nghiên cứu lần này là đã xác lập được mối
liên hệ giữa quá trình mã hóa trí nhớ và hoạt động của hồi hải mã. Lưu ý rằng
bà Ghetti không tham gia vào nghiên cứu này.
Trong thử nghiệm, sau một khoảng thời gian, các bé được cho
xem hai hình ảnh đặt cạnh nhau, bao gồm một hình quen thuộc và một hình mới. Để
xác định mức độ nhận diện hình ảnh, các nhà khoa học theo dõi chuyển động mắt của
trẻ nhằm đánh giá hình ảnh nào thu hút sự chú ý của bé lâu hơn.
Nếu ánh mắt của trẻ tập trung nhiều hơn vào hình quen thuộc,
điều đó cho thấy bé có khả năng ghi nhớ. Ngược lại, nếu trẻ không có sự ưu tiên
rõ ràng giữa hai hình, điều đó có thể cho thấy trí nhớ của bé chưa phát triển đầy
đủ.
“Chuyển động mắt là một công cụ đã được sử dụng trong hàng
trăm nghiên cứu về trí nhớ và phân loại ở trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh tự nhiên hướng
mắt đến những thứ chúng thấy thú vị, và các nhà nghiên cứu đã tận dụng đặc điểm
này để tìm hiểu cơ chế hoạt động của trí nhớ”, bà Ghetti cho biết qua
email.
Phân tích hoạt động của hồi hải mã
Sau khi thu thập dữ liệu, nhóm nghiên cứu tiến hành phân
tích các bản quét fMRI từ những trẻ nhìn lâu hơn vào hình ảnh quen thuộc và so
sánh với nhóm không có sự ưu tiên rõ ràng. Những thử nghiệm bị loại trừ nếu trẻ
không tập trung vào màn hình hoặc có nhiều chuyển động như chớp mắt quá nhiều
trong lúc quét.
Kết quả cho thấy, khả năng mã hóa ký ức có sự khác biệt giữa
các độ tuổi. Ở nhóm trẻ lớn hơn, hồi hải mã có mức độ hoạt động cao hơn khi mã
hóa thông tin. Ngoài ra, chỉ nhóm trên 12 tháng tuổi mới xuất hiện sự kích hoạt
ở vỏ não trán ổ mắt, khu vực liên quan đến quá trình ra quyết định về trí nhớ
và nhận diện.
“Ở người trưởng thành, chúng ta có xu hướng ghi nhớ những
thông tin quan trọng và có liên hệ trực tiếp đến trải nghiệm của bản thân”, Tiến
sĩ Lila Davachi, giáo sư tâm lý học tại Đại học Columbia, nhận định. Mặc dù
không tham gia vào nghiên cứu này, bà nhấn mạnh: “Điều đặc biệt trong nghiên cứu
này là nó đã chứng minh được rằng ngay từ khi còn rất nhỏ, hồi hải mã của trẻ
sơ sinh đã tham gia vào quá trình mã hóa trí nhớ, ngay cả khi các hình ảnh
không có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ”.
Hiện tại, nguyên nhân khiến trẻ trên 12 tháng tuổi có khả
năng mã hóa trí nhớ tốt hơn vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, các nhà
khoa học đưa ra giả thuyết rằng sự thay đổi này có thể liên quan đến những biến
đổi lớn trong sự phát triển của não bộ.
“Não bộ của trẻ nhỏ trải qua rất nhiều thay đổi quan trọng
trong giai đoạn đầu đời, bao gồm sự phát triển về nhận thức, ngôn ngữ, vận động
và sinh học. Đặc biệt, hồi hải mã phát triển với tốc độ nhanh chóng trong thời
kỳ này”, Tiến sĩ Turk-Browne giải thích.
Hiện nhóm nghiên cứu của ông Turk-Browne đang tiếp tục tìm
hiểu lý do vì sao những ký ức đầu đời không thể được truy xuất sau này. Ông đưa
ra giả thuyết rằng trong giai đoạn sơ sinh, não bộ chưa phát triển đủ để cung cấp
những “từ khóa tìm kiếm” chính xác, khiến việc hồi tưởng ký ức trở
nên khó khăn khi trưởng thành. Cách ký ức được mã hóa có thể phụ thuộc vào trải
nghiệm ban đầu của trẻ.
Ý nghĩa của giai đoạn sơ sinh đối với cha mẹ
Tiến sĩ Ghetti khuyến khích phụ huynh cân nhắc đến tầm quan
trọng của giai đoạn sơ sinh đối với con cái, dù trẻ không thể nhớ lại những trải
nghiệm này khi lớn lên.
Ở độ tuổi này, trẻ tiếp nhận một khối lượng lớn thông tin,
trong đó có khả năng học ngôn ngữ thông qua việc liên kết âm thanh với ý nghĩa.
Bên cạnh đó, trẻ cũng bắt đầu hình thành kỳ vọng về các thành viên trong gia
đình và khám phá thế giới xung quanh, bao gồm các đặc điểm của đồ vật.
Phụ huynh có thể quan sát quá trình này khi nhận thấy trẻ phản
ứng với những bài hát hoặc câu chuyện được lặp lại nhiều lần. Theo Tiến sĩ
Davachi, điều này không chỉ giúp trẻ ghi nhớ mà còn khiến phản ứng của chúng trở
nên tự nhiên hơn khi lớn lên.
“Việc lặp đi lặp lại các hoạt động tương tác giúp tăng cường
sự gắn kết giữa cha mẹ và trẻ”, bà Davachi chia sẻ.
Theo quan điểm của bà Ghetti, mặc dù những ký ức đầu đời
không thể được hồi tưởng khi trưởng thành, nhưng trải nghiệm trong giai đoạn
này vẫn có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhận thức và cảm xúc của trẻ.
“Điều này nhắc nhở cha mẹ rằng giai đoạn sơ sinh không phải
là một khoảng thời gian trống rỗng. Trẻ nhỏ đang tiếp thu rất nhiều kiến thức,
và việc tạo điều kiện cho trẻ quan sát, khám phá có thể đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển kỹ năng học tập sau này”, bà chia sẻ thêm.
Thanh Mai (theo CNN)
Nguồn: https://doanhnghiepvn.vn/cong-nghe/he-lo-nguyen-nhan-khien-con-nguoi-thuong-quen-ky-uc-thoi-tho-au/20250324093423418