“Để Nghị quyết 57 thực sự đi vào cuộc sống, phải gắn trách nhiệm của nhà khoa học với công trình nghiên cứu. Chứ không thể tiêu tiền nhà nước, khi đề tài dự án không thành công lại đổ hết cho yếu tố khách quan, còn người làm phủi tay trách nhiệm…”, TS. Phạm Công Thiếu, Viện trưởng Viện Chăn nuôi nói.
Bố trí ngân sách kiểu “gọt chân cho vừa giày”, làm nhụt chí các nhà khoa học
Trao đổi với PV Dân Việt, TS. Phạm Công Thiếu – Viện trưởng Viện Chăn nuôi chia sẻ: “Sau khi Bộ Chính trị có Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đặc biệt là lại do đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương, chúng tôi vô cùng phấn khởi. Nghị quyết ban hành không khác nào như ruộng khô hạn gặp mưa rào, các nhà khoa học “cây đa cây đề” trong lĩnh vực chăn nuôi khi gọi điện cho chúng tôi đều bày tỏ sự vui mừng”.
Phấn khởi thứ hai, đó là Tổng Bí thư yêu cầu điều chỉnh dự toán ngân sách năm 2025 để bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, và tiếp tục nâng lên thành 2% GDP trong 5 năm tiếp theo. Năm ngoái, ngân sách thu hơn 2 triệu tỷ đồng, nếu chúng ta dành 3% trong số đó thôi thì sẽ là số tiền rất lớn.
“Phải có kinh phí đủ mạnh mới có đột phá cho nghiên cứu khoa học. Thực tế từ trước tới nay chúng ta luôn không có đủ kinh phí cho nghiên cứu khoa học, và bố trí rất ngắn hạn” – ông Thiếu nói.

TS. Phạm Công Thiếu thăm Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi Gia cầm VIGOVA, thuộc Phân Viện Chăn nuôi Nam Bộ. Ảnh: vcn
TS. Thiếu kể: “Ví dụ chúng tôi xây dựng 1 đề tài về chọn tạo gà giống, đáng lẽ chọn lọc phải có quy mô xuống chuồng 5.000 con gà 1 ngày tuổi mới đảm bảo chọn ra số lượng ưu tú nhất; nhưng ngân sách chỉ cho có 1.500 con, kiểu “gọt chân cho vừa giày” thì không đi đến đâu cả”.
Đề tài nghiên cứu có hiệu quả trong thực tế phải mất 6-10 năm. Nhưng kinh phí không đủ, thời gian lại quá ngắn, đã thế còn phân tán ra nhiều đầu mối nên làm các nhà khoa học nản lòng, nhụt chí. Tâm huyết đam mê vì thế mà cũng bị bào mòn dần theo thời gian.
Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, thời gian từ khi bắt đầu một đề tài nghiên cứu khoa học cho đến khi có hiệu quả trong thực tế sản xuất phải mất 6-10 năm, nhanh nhất là 5 năm, đặc biệt là nghiên cứu chọn tạo về giống phải có thời gian khá dài mới cho ra sản phẩm cung cấp cho sản xuất, nhất là các vật nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa…
Trong khi kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ của nước ta vừa ít vừa phân tán khiến trình độ khoa học công nghệ của nước ta không mạnh. Mà đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ là đầu tư có hiệu quả nhất, lãi nhất.
Viện trưởng Viện Chăn nuôi khẳng định: Tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi thời gian luôn duy trì ở mức cao (5-6%/năm) chính là nhờ khoa học và công nghệ, với những tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới được áp dụng vào sản xuất, từ thức ăn, con giống tới quy trình nuôi dưỡng, thú y phòng bệnh và xử lý môi trường…
Hệ thống chăn nuôi lợn 4 cấp (cụ kỵ – ông bà – bố mẹ – thương phẩm) đang phát triển mạnh, trong đó có 16 doanh nghiệp lớn đầu tư lĩnh vực này. Nước ta đã có một số chuỗi sản xuất theo mô hình 4 cấp, với quy mô từ 0,5-2 triệu lợn thịt hàng hóa/chuỗi cho hiệu quả cao, an toàn dịch bệnh.
Ngoài ra, nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới trong chăn nuôi và sử dụng nguồn thức ăn chất lượng tốt, nhiều trại chăn nuôi lợn đã có giá thành bằng hoặc thấp hơn Thái Lan. Đặc biệt, trong nuôi gà công nghiệp, đã có những trại nuôi giá thành chỉ còn chưa đến 1 USD/kg, thấp hơn cả Thái Lan và một số nước EU.
Riêng về công nghệ sinh học – chăn nuôi là lĩnh vực có những bước đột phá quan trọng trong nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ được công nghệ. Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam đã nhân bản thành công đàn lợn ỉ; thành công trong nghiên cứu cấy phôi tươi, phôi đông lạnh trên lợn nái sinh sản, trong việc thụ tinh ống nghiệm và xác định giới tính của phôi.
Đầu tư ngân sách đủ mạnh cho cơ sở vật chất
Vậy với kinh phí 3% tổng chi ngân sách cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chúng ta nên đầu tư như thế nào? Trả lời câu hỏi này, ông Phạm Công Thiếu khẳng định: “Để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, theo tôi phải gắn với trách nhiệm của nhà khoa học với công trình nghiên cứu. Chứ không thể tiêu tiền nhà nước xong, tới khi đề tài dự án không thành công lại đổ hết cho yếu tố khách quan, trả lại nhà nước, còn người làm phủi tay trách nhiệm thì cũng không được”.

Bà Nguyễn Khánh Vân – Giám đốc Phòng Thí nghiệm trọng điểm (Viện Chăn nuôi) sử dụng thiết bị kính hiển vi được dự án JICA tài trợ. Ảnh: Nguyễn Chương
Trong nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có rủi ro, làm thế nào để các nhà khoa học dám chịu trách nhiệm, không sợ thất bại và dám thực hiện những nghiên cứu chưa từng có? Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ cần đọc đề tài đã thấy thành công rồi, thì cần gì nhiều công sức đầu tư nữa?
TS. Thiếu kể: “Từ tháng 7/2017, Viện Chăn nuôi đã tổ chức triển khai Đề tài “Nghiên cứu tạo lợn Ỉ bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma”. Đây là đề tài thuộc Chương trình trọng điểm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020. Nhưng ngay sau khi bắt tay làm, chúng tôi đã thấy bế tắc vì dịch tả lợn châu Phi bùng phát mạnh, sau đó là đại dịch Covid-19… Ngỡ là đề tài đi vào ngõ cụt”.
Nhưng được sự động viên khích lệ kịp thời từ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các cán bộ của Viện Chăn nuôi đã nỗ lực đầu tư trí tuệ; tiếp cận, học hỏi những tiến bộ khoa học thế giới để làm chủ công nghệ nhân bản lợn Ỉ từ tế bào soma mô tai trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu. Ngày 10/3/2021 đã có 4 chú lợn Ỉ nhân bản ra đời khỏe mạnh.
“Có thể nói sự thành công của đề tài nhân bản lợn Ỉ đã khẳng định được trình độ khoc học công nghệ của Việt Nam, khẳng định khả năng làm chủ công nghệ mới, gạt bỏ những tự ti lâu nay” – ông Thiếu nói.
Về đầu tư cơ sở vật chất, TS Phạm Công Thiếu cho rằng, phải đầu tư đủ mạnh, đủ lớn cho cơ sở vật chất, máy móc công nghệ. Để một đề tài tầm cỡ như “Nghiên cứu tạo lợn Ỉ bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma” thành công, Viện Chăn nuôi đã được cấp kinh phí 9 tỷ đồng.
Ông Thiếu khẳng định, nếu có sự đầu tư tốt và bài bản về cơ sở vật chất thì chắc chắn đề tài sẽ thực hiện nhanh hơn, bớt rủi ro hơn và có thể tiếp tục tạo ra những con lợn Ỉ cái bằng công nghệ nhân bản.
Chỉ tay vào một số máy móc trong phòng thí nghiệm và nhất là chiếc kính hiển vi đang được bà Nguyễn Khánh Vân sử dụng, TS. Phạm Công Thiếu nửa đùa nửa thật: “Chiếc kính hiển vi đó là chúng tôi xin được từ dự án JICA tài trợ. Cũng có một số máy móc hiện đại khác trị giá vài tỷ đồng, nhưng đều là phải đi xin, phát huy hợp tác quốc tế, chứ Nhà nước không có nguồn để cấp cho chúng tôi. Ít lắm! Kể cả làm một đề tài muốn mua 2 máy tính để bàn cũng xin mãi chưa được”.
“Khi thế giới đã đổi mới và đi rất xa, thì chúng ta vẫn phải dùng máy móc cũ, lạc hậu. Nói đi phải nói lại, dù đội ngũ nhà khoa học của chúng ta nhiều tâm huyết và vẫn cố gắng khắc phục khó khăn thiếu thốn, song điều kiện làm việc phải cần được cải thiện thì mới tạo động lực cho họ gắn bó, phát huy trí tuệ. Khi thiết bị lạc hậu thì tỉ lệ hư hỏng rủi ro sẽ cao hơn, mất nhiều công sức trí tuệ hơn và lắm lúc chưa làm ra tấm ra món thì đã đến kì nghiệm thu…” – ông Thiếu nói thêm.
Để công trình nghiên cứu khoa học công nghệ đi vào cuộc sống, phải có cơ chế đặt hàng các nhà khoa học.
“Trong nhiều năm làm việc ở lĩnh vực chăn nuôi, tôi nhận thấy những người làm quản lí nhà nước về ngành chăn nuôi ở địa phương được cọ sát với thực tiễn thì sẽ biết lĩnh vực chăn nuôi cần nghiên cứu vấn đề gì, trong khi các nhà khoa học không thể đi nhiều nơi biết tường tận. Đáng ra, các nhà quản lí phải ra đề bài, đặt hàng các nhà khoa học. Ví dụ khi có một danh sách đề tài, Viện Chăn nuôi sẽ nhìn vào xem khả năng của mình làm được những gì, từ đó làm hồ sơ đấu thầu đề tài.
Nhưng từ trước tới nay chúng ta độc có làm ngược. Các nhà khoa học đề xuất ý tưởng rồi cấp trên thẩm định, bỏ cái này bỏ cái kia, tuyển chọn đề tài rồi tổ chức đấu thầu. Nhiều đề tài xây dựng qua loa cho có, nên làm xong là cất ngăn kéo” – TS Thiếu nói.

Chăn nuôi gia cầm tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương. Nhachannuoi
Tiếp đó, khi nghiên cứu tạo ra được một dòng giống gà mới, giống lợn mới năng suất cao, sau khi nghiệm thu công nhận thì bước tiếp theo phải có sản xuất thử nghiệm, xây dựng một số mô hình khảo kiểm nghiệm trong sản xuất. Khi thành công mới chuyển giao kết quả nghiên cứu và việc này do Trung tâm Khuyến nông quốc gia thực hiện. Nếu không có bước chuyển tiếp này thì kết quả nghiên cứu sẽ lại cất ngăn kéo!
“Nhà khoa học đã được nhà nước bao cấp một phần lương, kết quả nghiên cứu chuyển giao công ích là chính. Tôi vẫn hay nói với anh em rằng, thôi không kêu nữa, bây giờ chỉ có duy nhất nhà khoa học là được Nhà nước bao cấp, không bị đánh thuế thu nhập. Còn các lĩnh vực khác đều phải tự bơi” – ông Phạm Công Thiếu bày tỏ.
Về chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn nhiều vấn đề. Hiện nay nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực có học hàm, học vị của toàn khối Viện bị thiếu hụt. Việc tuyển lao động phổ thông, kỹ sư trẻ khó khăn, trong khi nhiều cán bộ khoa học có kinh nghiệm xin nghỉ việc hoặc chuyển công tác.
Trong hơn 30 năm qua, Viện Chăn nuôi đã tuyển sinh 30 khóa đào tạo tiến sĩ, và đào tạo tổng số 168 nghiên cứu sinh với 3 chuyên ngành: Di truyền và chọn giống vật nuôi, Dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi và Chăn nuôi. Nhiều tiến sĩ được đào tạo từ cơ sở Viện Chăn nuôi là đồng tác giả của các Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng của Nhà Nước về khoa học công nghệ; trở thành các nhà nghiên cứu khoa học giàu kinh nghiệm, các nhà quản lý. Tuy nhiên còn rất nhiều lĩnh vực ít được quan tâm, như chưa có nhiều nghiên cứu về chế phẩm sinh học, thảo dược thay thế kháng sinh…
Bỏ suy nghĩ “ý tớ”
Từng là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Hà Nội), TS. Tăng Xuân Lưu cho biết, Nghị quyết 57 đã có nhiều đổi mới và đang tạo động lực cho các nhà khoa học phát triển. Nhà nước đã trao cho họ “thanh kiếm”, sử dụng nó như thế nào để tạo sự sắc bén, đột phá?
Tôi cho rằng ngay từ khâu suy nghĩ triển khai đề tài, chúng ta phải tôn trọng sáng kiến, ý tưởng của người đề xuất. Chứ không phải thấy ý tưởng đó không phù hợp với lãnh đạo là dừng, như thế thì khác nào lãnh đạo đang áp đặt suy nghĩ, quan điểm của mình lên một vấn đề, trong khi có thể vấn đề đó người làm quản lí không nắm bắt hiểu hết được.
“Làm khoa học không thể cưỡng bức ý tưởng, áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác, nó sẽ làm triệt tiêu sự sáng tạo, dù có thể ý tưởng đó ban đầu hơi điên rồ, khác người. Nhưng đó chính là khoa học, là sự sáng tạo, tìm ra sự khác biệt để tạo động lực cho phát triển. Muốn phát huy sáng tạo khoa học công nghệ thì cần tôn trọng ý kiến của mọi người, và phải được kiểm chứng bằng kết quả cuối cùng” – ông Lưu nói.
Làm khoa học có thất bại và thành công, nhưng hầu hết các nhà khoa học đều đưa ra ý tưởng dựa trên cơ sở lý luận và khoa học chứ không phải hoàn toàn điên rồ.
Xưa nay chúng ta triển khai nhiều vấn đề từ sự ràng buộc bởi “ý tớ”, nếu làm trái ý lãnh đạo, chẳng may đề tài thất bại thì ai là người chịu trách nhiệm? Chính suy nghĩ này đã trói buộc sự sáng tạo của rất nhiều cán bộ trẻ. Họ có trình độ, có sự háo hức nhưng đôi khi bị dập tắt bởi tư duy khác với lãnh đạo, không khác nào “mở” cơ chế đầu này nhưng lại “chặn” đầu kia. Lâu ngày tạo thành sức ỳ cho cán bộ trẻ, gây ra sự bất cập cho quá trình phấn đấu sáng tạo về sau.
Nguồn: https://danviet.vn/57-trong-nong-nghiep-gan-trach-nhiem-nha-khoa-hoc-voi-cong-trinh-nghien-cuu-co-co-che-dat-hang-dac-biet-bai-5-20250314013454574.htm