Lào Cai Xã Tả Thàng, huyện Mường Khương bảng lảng trong sương mù. Nơi đây, những cây chè cổ thụ vươn mình kiêu hãnh giữa giá lạnh, lưu giữ hồn đất và sức sống giữa đại ngàn.
Lào Cai Xã Tả Thàng, huyện Mường Khương bảng lảng trong sương mù. Nơi đây, những cây chè cổ thụ vươn mình kiêu hãnh giữa giá lạnh, lưu giữ hồn đất và sức sống giữa đại ngàn.
Con đường từ trung tâm huyện Mường Khương (Lào Cai) dẫn vào xã Tả Thàng giờ không còn gập ghềnh. Đường nhựa mới trải mềm mượt đưa tôi đến với mảnh đất được mệnh danh là “nơi ngủ quên của những cây chè cổ thụ”. Càng vào sâu, sương mù càng đặc quánh, ánh đèn phá sương vàng óng từ xe máy của người dân nơi đây len lỏi qua màn sương, giống như vì sao nhỏ soi đường giữa chốn đại ngàn.
Tả Thàng là xã vùng cao nằm ngay bên dòng sông Chảy, trên 99% dân số là người Mông. Cuộc sống của bà con còn gặp nhiều khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, mùa đông rét buốt kéo dài, cũng chính điều kiện ấy lại nuôi dưỡng nên cả vùng chè shan tuyết cổ thụ rộng lớn, được xem như “báu vật xanh” của vùng đất này.
Báu vật sừng sững giữa sương mù
Theo lời chỉ dẫn của người dân bản địa, tôi đi thẳng đến thôn Tả Thàng, thôn Sú Dí Phìn (xã Tả Thàng) – nơi được coi là đại bản doanh của rừng chè cổ thụ. Những gốc chè shan tuyết sừng sững vươn cao hàng chục mét, thân cây xù xì, rêu mốc, như chứng nhân của hàng trăm mùa đông giá rét. Không ai biết chúng có từ bao giờ, chỉ biết rằng cả rừng chè cổ thụ rộng lớn đã ở đây trước cả khi người Mông đặt chân lên mảnh đất này.
Dừng chân bên một căn nhà nhỏ, tôi được đón tiếp bởi bà Giàng Sinh, một người phụ nữ dân tộc Mông đã bước sang tuổi 84. Bà bước thoăn thoắt ra cổng, trên khuôn mặt khắc khổ ánh lên sự nhiệt tình hiếu khách. “Vào uống nước cho ấm người” – bà nói bằng tiếng Mông pha chút tiếng phổ thông lơ lớ.
Trong căn lều đơn sơ, ông Thào Dình (87 tuổi) chồng bà Sinh rót cho tôi một bát nước chè xanh shan tuyết nóng hổi còn bốc khói. Vị chè đắng nhẹ, hậu ngọt thanh, như chứa đựng cả hương vị của núi rừng, của sương gió và cả lòng hiếu khách của bà con nơi đây. “Ngày trước nghèo lắm, chè chỉ để uống trong nhà, ai ngờ giờ đây nó lại trở thành niềm hi vọng của bà con”, ông Dình chia sẻ.
Cây chè không chỉ là nguồn sống mà còn là niềm tự hào của gia đình ông Thào Dình. “Vườn chè cổ thụ này từ thời cha ông để lại. Nhà tôi hiện có gần 70 cây chè cổ thụ, mỗi năm cho thu nhập khoảng 20 – 30 triệu đồng, cũng đủ để cải thiện cuộc sống so với ngày xưa khi bà con chỉ biết trồng cây ngô, cấy lúa”.
Ông Dình bật cười khi kể về những lần trèo lên cây chè cao vút để hái lá: “Giờ chân yếu rồi, việc hái chè để lại cho con cháu. Mỗi mùa chè, vợ chồng tôi chỉ ra phát quang, nhìn cây chè vươn mình mà thấy ấm lòng”.
Rời khỏi căn lều nhỏ của ông bà, tôi tiếp tục dạo bước dưới bạt ngàn tán chè cổ thụ, cảm nhận hơi thở mát lành của núi rừng và sự bình yên hiếm có. Giữa không gian bảng lảng sương mù, tôi như thấy thời gian trôi chậm lại. Từng ngọn chè xanh mơn mởn, từng nhành cây đều kể lại câu chuyện của riêng nó – câu chuyện về sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, về lòng kiên trì của con người và về sự giao hòa giữa hai điều ấy.
Tiềm năng còn bị bỏ ngỏ
Trời nhá nhem tối, tôi men theo con đường trải bê tông từ đại bản doanh rừng chè cổ thụ rời khỏi bản Sú Dí Phìn xuống bản Tả Thàng và tìm đến nhà của anh Sùng Páo, Bí thư Chi bộ thôn Tả Thàng đúng lúc vợ chồng anh vừa đi giúp nhà anh em làm nhà mới trở về, chiếc xe máy lấm lem bùn đất dựng ở góc sân. Anh Páo là người dân tộc Mông ở tuổi ngoài 40, dáng vóc rắn rỏi, khuôn mặt sạm đen, đón tôi bằng nụ cười hiền lành.
Anh Páo bắt đầu câu chuyện khi tôi hỏi về nguồn gốc rừng chè: “Bà con ở đây sống nhờ cây chè cổ thụ từ bao đời nay, không ai biết chính xác các “cụ chè” có từ bao giờ, chỉ biết từ đời ông, đời cha đã gắn bó với nó. Thôn Tả Thàng hiện có khoảng 15ha chè cổ thụ, nhưng vẫn chưa có thương hiệu gì cả”.
Anh Páo kể, chè nơi đây không giống vùng khác, không cần chăm bón, thậm chí không được bón phân hay cắt tỉa, chỉ để mọc tự nhiên. Nếu bón phân hay cắt tỉa, người mua sẽ chê ngay vì chè sẽ bị chát hơn và không còn giữ được chất lượng.
Hai vụ thu hoạch chính vào tháng 4 và tháng 7 hàng năm, năm nay chè búp tươi được thu mua với giá từ 25.000 – 30.000 đồng/kg. Con số ấy khiến anh Páo không khỏi chạnh lòng khi nhớ lại thời kỳ năm 2017 – 2018, thương lái Trung Quốc trực tiếp đến mua tại chỗ với giá 85.000 đồng/kg. “Lúc ấy, giá chè cao, bà con phấn khởi lắm. Từ khi dịch Covid-19 đến giờ, thương lái Trung Quốc không sang nữa. Chúng tôi đành bán chè cho lái buôn dưới thành phố Lào Cai, họ mua rồi cũng đưa sang Trung Quốc nhưng giá thấp hơn nhiều”, anh Páo kể.
Anh Páo cho biết, hái chè cổ thụ không dễ, nhiều cây cao hàng chục mét, bà con phải leo trèo vất vả, đổi lại không mất quá nhiều công chăm sóc. Như nhà anh Páo có hơn 1ha chè cổ thụ, mỗi năm cho thu nhập khoảng 50 – 60 triệu đồng.
Ở Tả Thàng, hầu hết người dân chỉ bán chè búp tươi, mặc dù có một xưởng chế biến của Công ty Chè Tiên Thiên chuyên làm chè cao cấp hoạt động trên địa bàn. Theo anh Páo, Công ty chỉ lên hoạt động được 1 – 2 tuần vào mỗi vụ chè, sau đó lại bỏ về. Cũng từng có một số nhóm thương lái đến đây đề xuất mở xưởng chế biến, do đã có Công ty Chè Tiên Thiên đóng chân tại địa phương nên họ lại rút lui.
“Chè là cây chủ lực, nhưng đầu ra không ổn định nên cuộc sống bà con vẫn khó khăn”, anh Páo thở dài. Thôn Tả Thàng có hơn 60% hộ nghèo, kinh tế chủ yếu dựa vào trồng lúa nương, trồng sắn và chăn nuôi nhỏ lẻ. Thu nhập bình quân của người dân chỉ khoảng 20 triệu đồng/năm.
Để xóa đói giảm nghèo, chính quyền địa phương cũng đã cung cấp giống chè cổ thụ cho bà con trồng thêm, cùng với việc khuyến khích chăn nuôi lợn.
Với quyết tâm nâng cao đời sống cho bà con, Đảng ủy, UBND xã Tả Thàng đã xây dựng định hướng phát triển rõ ràng, tập trung tuyên truyền đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với thực tế, chủ lực là cây chè và nuôi lợn đen. Hiện trên địa bàn xã có diện tích chè cổ thụ đang khai thác với cây trên 1,5m là 16,5ha, còn lại cây dưới 1,5m trên 72ha.
Ông Lý Văn Phìn, Quyền Chủ tịch UBND xã Tả Thàng cho biết, hiện UBND xã cũng đang có chiến lược mở rộng diện tích chè, liên kết sản xuất với các công ty, tạo ra sản phẩm chè có giá trị cao hơn. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của xã trên 40%, giảm gần 10,5% so với năm trước.
Có thể thấy, cây chè cổ thụ nơi đây có tiềm năng lớn, là niềm tự hào của bà con người Mông. Nếu được đầu tư bài bản hơn nữa, cuộc sống của bà con nơi đây hẳn sẽ đổi khác nhờ cây chè.
Nguồn: https://nongsanviet.nongnghiep.vn/bau-vat-xanh-giua-dai-ngan-suong-phu-d413680.html