Bia kỷ niệm báo Giải Phóng bằng đá hoa cương đặt tại căn cứ cũ Bến Ra khắc tên 250 cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên, công nhân Nhà in B15C – trong đó một phần để tưởng niệm 14 anh chị em đã hy sinh trên chiến trường – là không gian thiêng liêng để mãi nhớ về B18 hơn 10 năm trên tuyến lửa của cuộc chiến tranh giữ nước nửa thế kỷ trước…
1. Có lẽ không có tờ báo nào mà lúc khởi đầu lại “độc đáo” như tờ Giải Phóng. Độc đáo vì măng sét và ma két báo được phác thảo trong một chiếc tàu không số từ biển Hải Phòng bí mật chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Khi tàu cập bến Khâu Băng, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, tháng 4/1964, tác giả măng sét và ma két ấy là nhà báo Kỳ Phương – Tổng Biên tập báo Cứu Quốc được điều vào chiến trường để xuất bản tờ báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là Mặt trận), chưa vội lên R (mật danh chiến khu Bắc Tây Ninh – chiến khu C). Ông nán lại ở báo Chiến Thắng của Đảng bộ tỉnh Bến Tre – tờ báo in máy Pedal, ba màu, chữ chì sắc nét, giá bán 1 đồng, để tìm hiểu về cách tổ chức và xuất bản một tờ báo giữa vòng vây của đối phương. Khi nhà báo Kỳ Phương theo giao liên vũ trang lên đến R, hình dáng sơ khai của tờ báo Giải Phóng từ những nét vẽ chưa chỉn chu trên những trang giấy kẻ ô của ông coi như đã xong, kế hoạch thực hiện cũng đã ở trong đầu.
Theo lệnh cấp trên, báo Giải Phóng (mật danh B18) phải ra đúng ngày 20/12/1964 với nhiệm vụ “cổ vũ tinh thần chiến đấu của đồng bào miền Nam và cả nước, đồng thời giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ và hiểu đúng cuộc kháng chiến của nhân dân ta”. Báo Giải Phóng nhận lãnh sứ mệnh cao cả dựa trên nền móng báo chí bí mật của cách mạng miền Nam đã tồn tại trong điều kiện cực kỳ gian nguy suốt 6 năm dài bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, khủng bố, trong khi Tòa soạn ngoài nhà báo Kỳ Phương, chỉ có nhà báo Tâm Trí, nhà báo Thái Duy từ báo Cứu Quốc lội bộ mấy tháng liền trên đường Trường Sơn vừa vào đến căn cứ.
Nhà báo Tâm Trí lập tức xuống vùng giải phóng tìm người để xây dựng “bộ khung” cho tờ báo. Trong một thời gian ngắn ở Củ Chi, nhờ sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng hai xã Phú Mỹ Hưng và An Phú, ông “chiêu mộ” được 32 thanh thiếu niên nam nữ làm đủ thứ việc, từ dựng lán, chạy văn thư đến chị nuôi, trong đó có cô bé 13 tuổi Nguyễn Minh Hiền với nhiệm vụ đầu tiên là chép tin đọc chậm trên Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam. Ít lâu sau, Thư ký Tòa soạn Tâm Trí có thêm người đánh máy và sửa bản in là chàng thanh niên đẹp trai Ba Minh từ Campuchia về.
Dù chỉ chuẩn bị trong thời gian rất ngắn, nhưng báo Giải Phóng đã in số đầu tiên 16 trang, hai màu, khổ A3 tại Nhà in Trần Phú của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục đúng ngày kỷ niệm Mặt trận ra đời, khởi đầu của một tờ báo đẹp về hình thức, phong phú về nội dung, xứng đáng là ngọn cờ đầu của báo chí cách mạng miền Nam.
2. Khi báo Giải Phóng đang ra đều kỳ 15 ngày với 5.000 bản mỗi số, thì từ ngày 22/2 đến 15/4/1967, quân Mỹ mở chiến dịch Junction City với 4 vạn quân, hàng trăm đại bác, xe tăng, máy bay đánh vào chiến khu Bắc Tây Ninh. Tất cả các cơ quan của Trung ương Cục và Mặt trận đều thành lập đội du kích bám trụ bảo vệ căn cứ. Do các phóng viên khỏe mạnh đã đi chiến trường, báo Giải Phóng chỉ có 5 người trong đội du kích. Khi địch đánh vào Nhà in Trần Phú, để chia lửa với bạn, đội du kích báo Giải Phóng kiên quyết đánh trả. Do trái mìn chống tăng nổ, đội du kích báo Giải Phóng hy sinh ba chiến sĩ, một chiến sĩ bị thương.
Vì máy in của Nhà in Trần Phú bị quân Mỹ chiếm được và cẩu về Sài Gòn, báo Giải Phóng phải tạm ngưng xuất bản. Các vị lãnh đạo báo chuyển công tác theo sự phân công của trên, nhiều phóng viên vẫn bám chiến trường, nhưng lại nhận được tin báo Giải Phóng giải thể, nghĩa là phóng viên, cán bộ của báo đang đi công tác ở các chiến trường “không còn nơi để về”. Hai tháng sau mới biết sự thật không phải vậy. Phóng viên tạm thời về Đài Phát thanh Giải phóng, cũng viết nhưng thay vì in thì phát lên sóng. Cuối năm 1967, được lệnh tập họp, anh chị em vui mừng khôn xiết. Cuối năm 1967, báo Giải Phóng đã chuẩn bị ráo riết cho một sự kiện lớn sẽ diễn ra đầu năm 1968: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Nhiều anh chị em trong Toà soạn theo các cánh quân đánh vào các đô thị miền Nam. Đặc biệt, nhà báo Thép Mới – đặc phái viên của báo Nhân Dân dẫn theo phóng viên Cao Kim của báo Giải Phóng bí mật vào Sài Gòn trước để chuẩn bị xuất bản báo Giải Phóng ngay tại Sài Gòn. Mọi công việc chuẩn bị tạm xong nhưng diễn tiến cuộc Tổng tiến công không như dự tính nên việc này không thực hiện được.
Trong đợt Tổng tiến công ấy, phóng viên Trần Huân Phương, Nguyễn Cảnh Hân, Quốc Hùng hy sinh và hai nhân viên nữ của báo Giải Phóng tham gia đội tự vệ Sài Gòn bị địch bắt.
Ngày 6/6/1969, diễn ra Đại hội thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, là sự kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Riêng báo Giải Phóng, trong vòng một tuần lễ ra liền hai số báo đặc biệt, 8 trang khổ lớn phục vụ và tuyên truyền sự thành công của Đại hội.
Tại sao mãi đến 4 năm sau ngày thành lập Mặt trận mới xuất bản báo Giải Phóng? Lý do chính là không có nhà in. Nhưng không thể chờ mãi, nhân kỷ niệm 4 năm ngày Mặt trận ra đời (20/12/1960 – 20/12/1964), cấp trên quyết định xuất bản báo Giải Phóng, dù chưa có nhà in.
Đầu năm 1970, do phải đối phó với trận càn Đông Dương của địch, Tòa soạn phải dời qua đất bạn Campuchia, không có nhà in nên báo Giải Phóng lại phải làm “báo nói” một lần nữa. Từ đó, “báo nói” được chủ động duy trì song song với báo in ba năm liền (1970-1972).
Đúng là báo Giải Phóng loay hoay hết “khổ nhỏ” đến “khổ lớn” mà vẫn không “hết khổ” vì chiến tranh ngày một ác liệt, tiếp liệu từ giấy, mực in, phim chụp ảnh đến thực phẩm đều thất thường. Đời sống càng lúc càng thiếu thốn: cá khô mục hơn, mắm chao đắng hơn, cả tháng không gạo, không muối… Nhưng báo Giải Phóng thì phải xuất bản vì không thể để tiếng nói của Mặt trận bị gián đoạn.
Sau Tết Mậu Thân, các vị lãnh đạo báo Giải Phóng đã hoàn thành xuất sắc công việc của bậc “tiền hiền khai cơ” qua 5 năm vượt qua vô vàn gian nguy, thiếu thốn, đều được chuyển công tác hay đi dưỡng bệnh, báo Giải Phóng lật sang một chương mới với Tổng Biên tập là nhà báo Thép Mới. Từ đó báo Giải Phóng tiếp tục ra đều đặn trong chiến khu cho đến ngày 1/5/1975.
Không kể những phóng viên được phái theo các cánh quân khi chiến dịch mùa xuân 1975 bắt đầu, trước trận đánh kết thúc cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, chỉ vài người ở lại căn cứ để làm số báo cuối cùng, còn toàn bộ cơ quan báo Giải Phóng lên xe tải tiến thẳng về Sài Gòn, và 5 ngày sau khi giang sơn thu về một cõi, báo Giải Phóng đã cho ra đời báo Sài Gòn Giải phóng.
3. Tại sao mãi đến 4 năm sau ngày thành lập Mặt trận mới xuất bản báo Giải Phóng? Lý do chính là không có nhà in. Nhưng không thể chờ mãi, nhân kỷ niệm 4 năm ngày Mặt trận ra đời (20/12/1960 – 20/12/1964), cấp trên quyết định xuất bản báo Giải Phóng, dù chưa có nhà in.
Lúc ra quyết định ấy, Nhà in Trần Phú chỉ có một máy in stencil in tài liệu khổ lớn nhất A4, năm 1961 chuyển từ rừng Mã Đà (Chiến khu Đ) về Chiến khu C. Năm 1962, một thợ máy in kỳ cựu của Nhà in Phan Văn Mãng ở Long An – ông Nguyễn Khắc Tư được điều lên R, đã có sáng kiến đóng một máy in chữ chì kéo tay bằng gỗ rừng và sắt thép lấy từ hàng rào ấp chiến lược của đối phương. Nhờ chiếc máy in thủ công ấy cộng với tinh thần trách nhiệm và tay nghề cao của công nhân Nhà in Trần Phú, dù phải vất vả kéo tay suốt ngày đêm, số báo Giải Phóng đầu tiên ra đời, chữ, tranh, ảnh khá sắc nét.
Một thời gian sau, cơ sở cách mạng ở Sài Gòn đã chuyển lên cho Nhà in Trần Phú một máy in khá hiện đại của thập niên 1960, và báo Giải Phóng đã “in ké” cho đến đầu năm 1969, khi Tổng Biên tập Thép Mới “xin” được một máy in bán tự động hiệu Đối Khai từ Nhà in Tiến Bộ để thành lập Nhà in B15C. Để đưa được cái máy in ấy cùng với những khay chữ chì đủ kiểu chữ và dụng cụ chế bản kẽm từ Hà Nội vào đến Trảng Cháy trong căn cứ Bến Ra của báo Giải Phóng, phải dùng đến ba xe tải và gùi băng rừng vượt suối; rồi năm 1970, phải tháo rời ra vác vai và nhờ bò kéo “sơ tán” để tránh đợt càn của địch. Chính cái máy in này đã “chạy rôđa” cho ra đời hai số báo Giải Phóng đặc biệt khổ A2, 8 trang 2 màu, phục vụ ngày Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập.
4.Như đã kể ở trên, người đầu tiên lãnh đạo trực tiếp báo Giải Phóng là Tổng biên tập Kỳ Phương. Ông là nhà cách mạng lặng lẽ và đầy nghị lực suốt hai cuộc chiến tranh giữ nước. Từ cái lán lợp lá trung quân, chiếc bàn viết đan bằng cây mật cật, chiếc võng vải dù và ấm trà quạu dưới tán rừng già, ông đã cùng thuộc cấp làm nên tờ báo Giải Phóng đầy vinh quang và rất đáng tự hào.
Thay Kỳ Phương là nhà báo Thép Mới. Ông là người “đãng trí” trong cuộc sống đời thường nhưng nổi tiếng không biết sợ bom đạn, sống hết mình với đồng nghiệp và viết thì chí tình chí nghĩa. Tuy chỉ “dừng chân” ở báo Giải Phóng hai năm nhưng Thép Mới đã đưa tờ báo đi vào chiều sâu thế sự và lúc nào cũng tìm kiếm phong cách riêng, để lại những ấn tượng sâu đậm về một nhà báo – nghệ sĩ trong sáng, vô tư, mẫu mực.
Nguyễn Văn Khuynh là Tổng biên tập thứ ba của báo Giải Phóng vào thời điểm trước ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Ông đa tài, vừa nghiêm túc vừa hài hước, là người đã dốc tâm đưa báo Giải Phóng đến với đồng bào bằng cách bán báo trong vùng giải phóng và thực hiện nhiệm vụ lịch sử: Tổ chức ra báo Sài Gòn Giải phóng giữa Sài Gòn chỉ 5 ngày sau 30/4/1975.
Nguồn: https://daidoanket.vn/bao-giai-phong-10-nam-tren-tuyen-lua-10299123.html