Ấn Độ gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, trong khi Indonesia tự chủ lương thực và chỉ nhập khẩu lượng nhỏ gạo, điều này đã tác động đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Thực tế, từ mức đỉnh cao vào giữa tháng 8/2023 với con số 700 USD/tấn, giá gạo xuất khẩu đã tụt dốc xuống thấp nhất trong vòng 3 năm qua, giảm tới 43%.
Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp và PTNT gửi Bộ Tài chính phục vụ họp Ban chỉ đạo điều hành giá quý I/2025, mặt hàng lúa gạo năm 2025 được dự báo sẽ khó khăn và cần sớm tính các phương án sản xuất, kinh doanh phù hợp ngay từ đầu năm.
Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo năm 2024 đạt 9 triệu tấn và 5,67 tỷ USD, tăng 11,1% về khối lượng và tăng 21,2% về giá trị so với năm 2023. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 đạt 627 USD/tấn, tăng 9,1% so với năm 2023.
Ước khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo tháng 1 năm 2025 đạt 500.000 tấn và 308 triệu USD, tăng 1% về khối lượng nhưng giảm 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Trong năm 2024, Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 46,1%. Indonesia và Malaysia là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 13,2% và 7,5%. So với năm 2023, giá trị xuất khẩu gạo năm 2024 sang thị trường Philippines tăng 48,9%, Indonesia tăng 16,6%, Malaysia tăng 2,1 lần. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Malaysia với mức tăng 2,1 lần; thị trường có giá trị xuất khẩu giảm mạnh nhất là Trung Quốc với mức giảm 8,4%.
![Ấn Độ đã gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo - Ảnh 1.](https://cdn.vietnam.vn/wp-content/uploads/2025/02/An-Do-go-bo-lenh-cam-xuat-khau-gao-Indonesia.jpg)
Kho gạo xuất khẩu đi Philippines, Trung Quốc tại Công ty TNHH Dương Vũ, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Ảnh: Hồng Đạt
Năm 2024, thị trường thóc, gạo trong nước chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi tình hình xuất khẩu gạo. Giá các loại thóc, gạo tẻ có xu hướng tăng khoảng 1.000-2.000 đồng/kg (gạo tẻ thường phía Bắc khoảng 17.000-20.000 đồng/kg; phía Nam khoảng 12.500-13.500 đồng/kg). Trước, trong và sau Tết, giá lúa gạo ít biến động.
Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 ước đạt 626,5 USD/tấn, tăng 9% so với năm 2023 (quý I, giá gạo 5% tấm đầu năm cao, tăng mạnh nhờ nhu cầu lớn từ các thị trường nhập khẩu, trung bình khoảng 623 USD/tấn; quý II giá đạt đỉnh vào tháng 4 khoảng 642,7 USD/tấn nhưng giảm mạnh trong tháng 5,6, đạt trung bình khoảng 572 USD/tấn; quý III giá phục hồi nhẹ nhờ nhu cầu tăng giữa năm khoảng 605 USD/tấn; quý IV giá trung bình khoảng 628 USD/tấn duy trì mức cao ổn định và tăng tích cực so với 2023.
Dự báo về sản xuất và xuất khẩu gạo năm 2025, Bộ Nông nghiệp và PTNT cho hay, diện tích sản xuất lúa là 7,0 triệu ha, giảm 132.000 ha so với 2024; Năng suất dự kiến 61,6 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; Sản lượng ước đạt khoảng 43,143 triệu tấn, giảm khoảng 357.000 tấn so với năm 2024.
Năm 2025, sản lượng gạo hàng hóa xuất khẩu chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng ĐBSCL; các vùng khác chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa. Ước sản xuất cả năm 2025 vùng ĐBSCL đạt 3,778 triệu ha, năng suất bình quân ước 63,4 tạ/ha; sản lượng ước đạt 23,965 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ nội địa cho vùng ĐBSCL và TP.HCM (dự tính tổng số lượng người tiêu thụ gạo từ ĐBSCL là 28 triệu người, gồm: dân số vùng ĐBSCL khoảng 18 triệu người và TP. HCM khoảng 10 triệu người) và sử dụng làm giống, thức ăn chăn nuôi… tổng lượng lúa tiêu thụ trong vùng khoảng 8,9 triệu tấn.
Lúa hàng hóa dùng cho xuất khẩu ước khoảng 15 triệu tấn, tương đương 7,54 triệu tấn gạo hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu, trong đó, lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước 4,5 triệu tấn (tháng 1 khoảng 450.000 tấn; tháng 2 khoảng 570.000 tấn; tháng 3 khoảng 1,13 triệu tấn; tháng 4 khoảng 1 triệu tấn; tháng 5 khoảng 850.000 tấn; tháng 6 khoảng 500.000 tấn).
Lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu 6 tháng cuối năm ước 3,04 triệu tấn (tháng 7 khoảng 550.000 tấn; tháng 8 khoảng 900.000 tấn; tháng 9 khoảng 900.000 tấn; tháng 10 khoảng 300.000 tấn; tháng 11 khoảng 250.000 tấn; tháng 12 khoảng 140.000 tấn).
Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, khi Ấn Độ đã gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, trong khi Indonesia (thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam) tự chủ lương thực và chỉ nhập khẩu lượng nhỏ gạo tùy thuộc vào nguồn cung sẽ tác động đến lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Thực tế trên thị trường cho thấy, sau Tết Nguyên đán, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã giảm đáng kể, đạt mức thấp nhất trong 9 năm qua. Lượng gạo xuất khẩu tăng nhưng giá trị đang giảm mạnh. Trong tháng 1/2025, Việt Nam xuất khẩu khoảng 500.000 tấn gạo, thu về 308 triệu USD, tăng 1% về lượng nhưng giảm 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), từ mức đỉnh cao vào giữa tháng 8/2023 với con số 700 USD/tấn, giá gạo xuất khẩu nước ta đã tụt dốc và xuống mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua (giảm tới 43%).
Hiện gạo tẻ thường loại 5% tấm xuất khẩu chỉ ở mức 399 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 371 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 313 USD/tấn – đây là mức giá thấp nhất trong 9 năm qua. Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan hiện đang đứng ở mức 433 USD/tấn (cao hơn 34 USD/tấn so với gạo Việt Nam); gạo 25% tấm đứng ở mức 411 USD/tấn (cao hơn 40 USD/tấn so với gạo Việt Nam) và gạo 100% tấm đứng ở mức 377 USD/tấn (cao hơn 64 USD/tấn so với gạo Việt Nam).
Với giá gạo Ấn Độ, gạo 5% xuất khẩu hiện cũng đang đứng ở mức 413 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 394 USD/tấn. Gạo Pakistan 5% tấm xuất khẩu đứng ở mức 404 USD/tấn; gạo 25% tấm đứng ở mức 377 USD/tấn và gạo 100% tấm đứng ở mức 340 USD/tấn.
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, xuất khẩu gạo toàn cầu năm 2025 dự kiến đạt 56,3 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với dự báo trước đó. Nguồn cung dồi dào sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các quốc gia xuất khẩu. Hiện các quốc gia sản xuất gạo lớn như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan đang đẩy mạnh cung ứng để tận dụng cơ hội xuất khẩu. Do đó, Việt Nam phải linh hoạt hơn trong chiến lược, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm và tối ưu hóa thương hiệu.
Để duy trì ổn định về giá và thị trường, Bộ Nông nghiệp và PTNT cho rằng, một mặt vẫn chú trọng xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm như Philippines, Indonesia… mà cần mở rộng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác, như châu Âu, Mỹ, Trung Đông, Tây Á và Châu Phi; các địa phương cần tập trung sản xuất các loại gạo chất lượng, giá bán cao được thị trường ưa chuộng như các loại gạo thơm, gạo đặc sản… Đồng thời, tập trung nguồn lực cho việc triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL.
Nguồn: https://danviet.vn/an-do-go-bo-lenh-cam-xuat-khau-gao-indonesia-mua-nho-giot-bo-nnptnt-du-bao-gi-ve-thi-truong-gao-20250212094838452.htm