Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh là cam kết quốc tế về thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam nhất trí thực hiện kể từ năm 1995.
Trong giai đoạn 2019-2024, Việt Nam đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
![]() |
Ngày 20-21/2, Bộ Công an và UN Women tổ chức hội thảo thúc đẩy triển khai Chương trình Hành động quốc gia về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh 2024–2030. (Nguồn: UN Women) |
Những kết quả toàn diện
Thúc đẩy việc làm bền vững
Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và triển khai nhiều chính sách, mô hình hỗ trợ lao động nữ, bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai và tiếp cận tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ như Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Đất đai năm 2024, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Trong giai đoạn chịu sự tác động của đại dịch Covid-19, Chính phủ thực hiện 12 chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch.
Với những nỗ lực đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao trên thế giới, đạt 62,9% (năm 2023). Tỷ lệ lao động nữ trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo đạt 26,8%.
Việt Nam có khoảng 20% doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có quy mô nhỏ và vừa. Tổng số khách hàng là nữ giới đứng tên vay vốn các chương trình tín dụng tại Ngân hàng Chính sách xã là 4,7 triệu khách hàng, chiếm 68% tổng số khách hàng đang còn dư nợ.
Chỉ số bình đẳng giới của Việt Nam năm 2024 xếp hạng 72/146 quốc gia. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn ở mức cao trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương (đạt 30,26%); Phụ nữ Việt Nam chiếm 46,8% lực lượng lao động cả nước; Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động nữ là 62,4%; Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đạt 28,2%. |
Xóa nghèo, bảo trợ xã hội và dịch vụ xã hội
Việt Nam đã ban hành và thực thi nhiều chính sách với quan điểm không có bất kì sự phân biệt đối xử và bảo đảm thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, chăm sóc y tế cơ bản, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, trong đó, phụ nữ thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo là một trong những đối tượng được ưu tiên, quan tâm của chương trình.
Chính sách trợ giúp xã hội của Việt Nam không ngừng được bổ sung và sửa đổi phù hợp với thực tiễn, từng bước tiếp cận với thế giới hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng theo vòng đời từ độ tuổi ấu thơ đến người già; một số chính sách trợ giúp xã hội đã hướng tới phụ nữ (bao gồm cả phụ nữ khuyết tật) và trẻ em gái. Nhà nước luôn nhất quán chính sách về bảo đảm quyền được giáo dục và công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với học sinh, sinh viên nghèo, trẻ em người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi.
Nhờ vậy, Việt Nam là quốc gia có thành tựu giảm nghèo nổi bật trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh, còn 2,93% (năm 2023). Cả nước đã thành lập được 425 cơ sở trợ giúp xã hội. Hệ thống dịch vụ y tế ngày một hoàn thiện, độ bao phủ BHYT đạt tỷ lệ 93,35% với trên 93,3 triệu người tham gia; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2017, khoảng cách giới trong tham gia giáo dục tối thiểu gần như đã được xoá bỏ.
![]() |
Các đại biểu cắt băng khánh thành Ngôi nhà Ánh Dương tại tỉnh Hòa Bình hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực. (Ảnh: Ngọc Anh) |
Nỗ lực xóa bỏ bạo lực giới
Công tác phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới đã và đang được Chính phủ Việt Nam quan tâm và ưu tiên thực hiện.
Trong giai đoạn 2019-2024 các nội dung điều chỉnh về bạo lực trong lĩnh vực bình đẳng giới và gia đình tiếp tục được đưa vào các văn bản pháp luật, chính sách quan trọng như Bộ luật Lao động năm 2019 (bổ sung quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022; Chương trình “Phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025”; Chương trình “Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2021-2025″; Chương trình “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2021-2025” và nhiều văn bản khác.
Việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cho đội cán bộ quản lý nhà nước, người cung cấp dịch vụ phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, phòng, chống xâm hại, bạo lực trẻ em và công tác truyền thông về phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới và bạo lực, xâm hại trẻ em, mua bán người tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện.
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, bạo lực gia đình ngày càng được quan tâm giải quyết; các dịch vụ hỗ trợ được thực hiện tốt hơn. Các mô hình thúc đẩy bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới từng bước phát triển về số lượng và chất lượng, được quan tâm phát triển và thực hiện ở các cấp độ khác nhau. Công tác kiểm tra được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc.
Trao quyền cho phụ nữ
Việt Nam đã có nhiều hành động, biện pháp để thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào đời sống xã hội và ra quyết định. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 xác định mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực chính trị.
Chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021-2030″ được ban hành nhằm phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, hướng tới thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Nội dung về giới và bình đẳng giới được lồng ghép trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
Kết quả bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị có những tiến bộ đáng ghi nhận, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia làm lãnh đạo, quản lý cao trên thế giới.
Đến tháng 8/2024, Việt Nam có 1 nữ Phó Chủ tịch nước; 1 nữ Phó Chủ tịch Quốc hội; 3/12 nữ Chủ nhiệm ủy ban, cơ quan tương đương của Quốc hội; 4/30 nữ Bộ trưởng và tương đương; 14/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ lãnh đạo chủ chốt; Tỷ lệ chính quyền địa phương cấp tỉnh có lãnh đạo chủ chốt là nữ (Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) chiếm 74,6% (47/63 tỉnh/TP trực thuộc trung ương).
![]() |
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến (thứ 5 từ phải qua, hàng trước) và các đại biểu thể hiện sự quyết tâm về thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, ngày 16/11/2024. |
Xã hội hòa bình và hòa nhập
Việt Nam luôn chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, an ninh, thúc đẩy hợp tác và phát triển.
Chương trình “Hành động quốc gia về Phụ nữ, hòa bình và an ninh giai đoạn 2024-2030” được ban hành với mục tiêu bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa bình đẳng giới; nâng cao vai trò, vị thế, tiếng nói, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của phụ nữ trong tham gia các lĩnh vực hòa bình, an ninh, góp phần duy trì hòa bình, ổn định và sự phát triển bền vững của quốc gia và trên phạm vi quốc tế.
Coi truyền thông là giải pháp quan trọng để nâng cao nhận thức đối với chương trình nghị sự về phụ nữ, hòa bình và an ninh. Các chính sách, pháp luật trong lĩnh vực truyền thông đều không mang tính phân biệt đối xử về giới.
Tính đến tháng 8/2024, có 117 lượt nữ quân nhân, trong đó, có 4 nữ sĩ quan Công an nhân dân được triển khai đến phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Việt Nam hiện là nước có tỷ lệ nữ quân nhân tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc đạt gần 15%. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam tích cực đóng góp xây dựng các khuôn khổ chính sách của khu vực về Phụ nữ, Hoà bình và An ninh và tham gia Nhóm Phụ nữ ASEAN về hòa giải.
Bảo tồn, bảo vệ và phục hồi môi trường
Việt Nam là một trong số ít những quốc gia trên thế giới coi bình đẳng giới như một nội dung xuyên suốt trong chiến lược giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu của quốc gia.
Nội dung về giới được lồng ghép vào các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về môi trường như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng, chống thiên tai, Luật Đất đai, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến 2050, Đề án “Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng đến năm 2030″ đã góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, giúp người dân tiếp cận, thụ hưởng tốt hơn các chính sách về môi trường, đất đai, phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu.
Việt Nam đã có nhiều hành động và cam kết đưa vấn đề bình đẳng giới, bảo đảm sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào các khâu và hành động vì khí hậu vào trong chương trình nghị sự cao nhất của đất nước.
Tháng 9/2020, Chính phủ Việt Nam đã đệ trình bản cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Việt Nam nỗ lực triển khai các cam kết tại Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26) cũng như các cam kết theo các Công ước quốc tế về quyền con người Việt Nam đã tham gia.
![]() |
Không khí Ngày Phụ nữ Việt Nam tại Bệnh viện dã chiến ở Nam Sudan. (Nguồn: BVDC2.6) |
Những ưu tiên trong thời gian tới
Từ thực tiễn cho thấy vẫn còn một số khó khăn đặt ra đối với công tác bình đẳng giới nói chung và việc thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh giai đoạn 2019-2024, đó là:
Tỷ lệ lao động nữ trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Trung bình tiền lương chính của lao động nữ vẫn thấp hơn so với lao động nam.
Tình trạng mất việc làm của lao động nữ chưa qua đào tạo do thay đổi công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ tự động hóa vẫn tồn tại. Phần lớn các chính sách về trợ giúp xã hội đều trung tính về giới.
Tình trạng phá thai ở người chưa thành niên, phá thai tại một số cơ sở y tế tư nhân không đảm bảo điều kiện vẫn diễn ra. Đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội, phòng, chống bạo lực còn hạn chế về số lượng và năng lực, nguồn kinh phí được cấp chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Còn nhiều khuôn mẫu định kiến về vai trò, vị trí của nam giới và nữ giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, gia đình. Việc đánh giá tác động giới trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đôi khi còn chưa thực chất, thiếu số liệu phân tách giới.
Tỷ lệ phụ nữ trong lực lượng vũ trang, các đoàn đàm phán hòa bình còn ít. Phụ nữ và trẻ em vẫn dễ bị tổn thương hơn so với nam giới.
![]() |
Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Bộ trưởng khu vực châu Á-Thái Bình Dương đánh giá 30 năm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh diễn ra tại Bangkok, Thái Lan từ ngày 19-21/11/2024. (Nguồn: Molisa) |
Từ các thành tựu, thách thức cũng như bài học rút ra qua quá trình thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, cần ưu tiên thực hiện một số giải pháp trong giai đoạn tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, nâng cao quyền của phụ nữ và trẻ em gái.
Thứ hai, tiếp tục đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, quyền của nhóm phụ nữ, trẻ em gái.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng luật pháp, chính sách.
Thứ tư, tiếp tục thúc đẩy vấn đề ngân sách có trách nhiệm giới.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thống kê giới, bình đẳng giới.
Nguồn: https://baoquocte.vn/no-luc-vi-su-tien-bo-cua-phu-nu-306500.html