Nghị quyết số 57-NQ/TW về chuyển đổi số, đột phá khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo đã tạo ra những xung lực mới…
![]() |
Nghị quyết 57-NQ/TW tạo ra xung lực mới cho chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ nước ta. (Nguồn: VGP) |
Gỡ bỏ những rào cản
Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia một lần nữa khẳng định tinh thần Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ở một mức độ rộng hơn, cụ thể hơn, mang tính “cởi trói” những hạn chế, rào cản, khó khăn và thách thức, hướng tới sự tăng trưởng vượt bậc của Việt Nam trong hai thập kỷ tới.
Ba trụ cột chính, đó là khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, khẳng định một mối quan hệ biện chứng trong việc định hình nền tảng cho phát triển.
Trong đó, khoa học – công nghệ đóng vai trò là động lực mang tính nền tảng cho sự phát triển. Đổi mới sáng tạo đóng vai trò dẫn động, góp phần tạo nên môi trường, “chất truyền dẫn” và sức sống mang tính phát triển cho tiến trình khoa học – công nghệ. Chuyển đổi số, khi đặt vào đúng bản chất, vị thế và vai trò của mình như một phương thức phát triển mới, trở thành nơi hiện thực hóa động lực mà khoa học – công nghệ đưa đến thông qua tiến trình dẫn động của đổi mới sáng tạo. Có thể nói, nhận thức rõ tác động biện chứng này, những biện pháp tháo gỡ “các điểm nghẽn” được đề ra một cách có hệ thống.
Thứ nhất, những cải cách thể chế tạo cơ chế mới cho sự phát triển của lĩnh vực khoa học – công nghệ với những đặc thù. Cụ thể, việc thu hút nhân tài và tạo điều kiện cho họ tham gia hiệu quả vào công cuộc phát triển khoa học – công nghệ; giải tỏa những điểm nghẽn thể chế về vốn đầu tư; cơ chế thẩm định, phê duyệt các đề án, đề tài khoa học; các vấn đề về trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học; huy động các nguồn lực xã hội, hợp tác quốc tế và xác lập các trọng điểm quốc gia.
Thứ hai, đổi mới sáng tạo cũng là những cải cách thể chế, tháo gỡ rào cản để gia tăng vốn đầu tư; tạo môi trường phát triển thuận lợi; hình thành những “sandbox” và nhận thức mới để chấp nhận rủi ro, mạo hiểm…
Thứ ba, thúc đẩy chuyển đổi số một cách tích cực và quyết liệt để hấp thụ, chuyển hóa và hiện thực hóa một cách cụ thể những kết quả mà khoa học – công nghệ cùng đổi mới sáng tạo đưa đến trong công cuộc phát triển của đất nước.
Ứng dụng công nghệ mới nâng cao cạnh tranh
Trong bối cảnh đột phá khoa học – công nghệ, việc ứng dụng công nghệ mới và nâng cao năng lực cạnh tranh là của doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp cần chủ động, chứ không phải chờ có nghị quyết mới thực hiện. Đổi mới sáng tạo để áp dụng hiệu quả khoa học – công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề sống còn, là động lực tự thân của doanh nghiệp.
![]() |
Ông Lê Nguyễn Trường Giang. (Ảnh: NVCC) |
Nghị quyết số 57 góp phần gia tăng những điều kiện tốt, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thông qua những hỗ trợ từ thể chế, vốn, nhân lực, hạ tầng và các điều kiện tạo thuận lợi khác cho doanh nghiệp đầu tư và thúc đẩy khoa học – công nghệ; đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Vấn đề định hướng, chủ yếu dừng lại ở việc hoạch định những trọng tâm mang tính mũi nhọn và trên cơ sở đó xác lập các hình thức hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia vào các lĩnh vực này. Do vậy, những doanh nghiệp có khả năng, hoặc tái định hướng phát triển, có nhiều dư địa, không gian, cùng các điều kiện thuận lợi để tham gia vào các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích, định hướng và hỗ trợ, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực nội sinh, cũng như giúp doanh nghiệp tận dụng lợi thế về thể chế, vốn và các điều kiện thuận lợi hóa kinh doanh của mình một cách hiệu quả.
Theo Nghị quyết, mục tiêu của Việt Nam là đưa tiềm lực và trình độ đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực chủ chốt đạt mức tiên tiến, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao. Trình độ, năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới.
Đánh giá về các cơ hội, có thể thấy với sự phát triển của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo đang nghiêng về các công nghệ ICT, công nghệ số và các ứng dụng góp phần cho tiến trình chuyển đổi số. Đây là những lĩnh vực Việt Nam có thể “bắt sóng” nhanh, bắt nhịp từ giữa chừng, cho phép tham gia ngay, hội nhập song song cùng các nước đã phát triển và đi trước, nếu chúng ta có khả năng học hỏi tốt, chuyển hóa và bắt kịp.
Tuy nhiên, về thách thức, cũng phải nhận thấy, trình độ khoa học – công nghệ của Việt Nam, đặc biệt về khoa học cơ bản, nền tảng vẫn hết sức hạn chế, giới hạn khả năng đổi mới sáng tạo, khi chúng ta chỉ có thể bắt nhịp ứng dụng được, nhưng thiếu năng lực hiểu thấu để nhận chuyển giao, sáng tạo và làm chủ. Yêu cầu về nguồn vốn, nhân lực có trình độ cao đủ cả về chất lượng và số lượng cũng là những thách thức lớn. Đồng thời, thể chế chưa theo kịp trình độ phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mới.
Chuyển đổi số là tiến trình mang tính phương thức, phương tiện, do vậy, nó có tác động mang tính định hình/tái định hình các mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp, chuyển hóa các mô hình này từ truyền thống sang môi trường số, định hình cách thức kiến tạo giá trị mới cho tổ chức, doanh nghiệp.
Đổi mới sáng tạo là nền tảng của kinh tế số, mang tính hệ quả của tiến trình chuyển đổi số. Do vậy, giữa đổi mới sáng tạo và tiến trình chuyển đổi số có mối quan hệ biện chứng, vừa đồng hành, tương tác, hỗ trợ và ảnh hưởng trực tiếp đến nhau.
Trong khi đó, nhân lực là yếu tố đầu tiên cũng là vấn đề sống còn của tiến trình chuyển đổi số nói riêng, sự phát triển khoa học – công nghệ và sự phát triển của đất nước nói chung. Không có con người sẽ không thể có đột phá nào cả. Do vậy, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số và đột phá khoa học công nghệ vô cùng quan trọng.
Đặc biệt, Nghị quyết số 57 đặt ra yêu cầu lớn về hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Theo tôi, để đạt được các mục tiêu này có nhiều việc cần làm. Cần xác lập rất rõ các lĩnh vực, cách thức, đối tượng và phương thức tổ chức triển khai hợp tác. Chúng ta cần một chiến lược định hình sự hợp tác cụ thể, không thể biến Việt Nam chỉ là nước tiếp nhận, là thị trường mà phải lấy những nền tảng tiền đề đó làm cơ sở để chủ động hội nhập, làm chủ và kiến tạo các tiến bộ khoa học – công nghệ và tiến trình chuyển đổi số.