VHO – Di sản văn hóa phi vật thể thực hành Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ở Châu Đốc, An Giang – một lễ hội đặc sắc có từ lâu đời, mang đậm giá trị văn hóa tâm linh của người dân Nam Bộ đã chính thức được UNESCO ghi danh vào cuối năm 2024.
Đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ 16 của Việt Nam được UNESCO ghi danh, đồng thời là di sản đầu tiên của Việt Nam có chủ thể là các dân tộc cả đa số và thiểu số. Lễ hội là sự kế thừa, tiếp thu và sáng tạo của cư dân Việt trong quá trình khẩn hoang, là tổng hòa của tín ngưỡng thờ Mẫu của các dân tộc Việt, Khmer, Chăm và Hoa.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam nhằm thể hiện lòng tôn kính Bà Chúa Xứ – một trong sáu vị Thánh Mẫu theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Do dân làng Vĩnh Tế tôn sùng Bà như vị thần làng nên các lễ nghi và tế tự trong lễ hội được thực hiện tương tự như lễ cúng Kỳ yên tại các đình làng thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Người dân đến dâng lễ, cầu mong Bà phù hộ, độ trì, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam có sức sống mãnh liệt trong tâm thức và đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư và là một thực hành nghi lễ quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân trong vùng.
Lễ hội diễn ra từ ngày 22 – 27.4 (âm lịch) hằng năm, được thực hiện theo nghi thức truyền thống, gồm: Lễ khai hội, lễ phục hiện rước tượng Bà từ đỉnh núi Sam xuống miếu thờ, lễ tắm Bà, lễ thỉnh sắc thần ông Thoại Ngọc Hầu và 2 vị phu nhân, lễ túc yết, lễ xây chầu, lễ chánh tế và lễ hồi sắc. Trong bối cảnh hiện nay, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam thu hút ngày càng đông người dân thập phương tham dự, với trên 5 triệu lượt du khách hành hương mỗi năm.
Trong số các nơi thờ tự Bà Chúa Xứ, miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam là nơi linh thiêng và tiêu biểu cả về truyền thuyết lẫn điện thần và lễ hội. Cho tới nay, có bốn truyền thuyết về sự xuất hiện của Bà, trong đó truyền thuyết dưới đây được phổ biến hơn cả.
Tương truyền, tượng Bà ngày xưa trên đỉnh núi Sam, nơi đó còn một bệ đá sa thạch hình vuông, cạnh 1,6m, dầy gần 0,30m. Vào những năm đầu của thế kỷ XIV, giặc Xiêm hay sang đây quấy nhiễu. Khi lên núi Sam, gặp tượng Bà, bọn chúng cạy ra khiêng xuống núi, nhưng đi được một đoạn, tượng Bà cứ nặng dần không thể nào khiêng được.
Một hôm, dân làng gặp tượng Bà giữa rừng, bèn họp nhau lại để tìm cách khiêng về, lập miếu thờ cúng. Kỳ lạ thay, mặc dù dân làng huy động khá nhiều thanh niên lực lưỡng vẫn không thể nào khiêng lên được. Bỗng một người phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ, bảo phải có 9 người con gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ đem được tượng Bà xuống núi.
Dân làng y lời, đến gần chân núi, tượng Bà nặng trịch, không xê dịch được nữa. Dân làng cho rằng Bà Chúa Xứ đã chọn nơi này an ngự. Thế là miếu thờ được dựng lên. Cũng từ đó, hằng năm người dân quanh vùng núi Sam tổ chức lễ hội cúng tế Bà, dần dần trở thành lễ hội nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ.
Trong số các miếu thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ, miếu thờ Bà Chúa Xứ ở núi Sam là miếu to nhất. Trước đây, miếu Bà không nằm ở vị trí này. Khi thực dân Pháp chiếm trọn tỉnh Châu Đốc, chúng mở đường giao thông, ngôi miếu được dời đến vị trí ngày nay. Hiện tại, miếu nằm trong địa phận phường Núi Sam (trước đây thuộc xã Vĩnh Tế), TP Châu Đốc, tỉnh An Giang, ngay nơi chân núi Sam.
Trung tâm của lễ hội miếu Bà Chúa Xứ diễn ra trong không gian thiêng, nơi đặt tượng Bà. Từ tín ngưỡng thờ Mẫu ở trong tâm thức, người Việt đã huyền thoại hóa một pho tượng và sáng tạo ra một điện thần riêng cho miếu Bà Chúa Xứ núi Sam cùng các hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng và lễ hội đặc trưng. Điều này tạo nên sự khác biệt so với các miếu thờ Bà ở Nam Bộ, nơi không có một điện thần như vậy.
Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là điểm hội tụ tinh thần và niềm tin của những người khai hoang mở đất. Bà đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của “Mẹ Đất” – Bà Mẹ xứ sở, có khả năng che chở, đùm bọc cộng đồng khi họ đến vùng đất mới. Niềm tin và khát vọng này được truyền lại qua các thế hệ, tạo nên sức mạnh tâm linh và lòng quả cảm cho những người xa xứ, đồng thời lan tỏa ra nhiều vùng đất khác ở Nam Bộ. Bà Chúa Xứ, nhân vật chính được thờ phụng, là biểu tượng tín ngưỡng của người Việt trong suốt lễ hội. Chính nhờ những yếu tố tâm linh thiêng liêng này, cư dân Việt đã tạo ra sức mạnh gắn kết các cộng đồng tộc người như Việt, Hoa, Chăm, Khmer Nam Bộ, giúp tránh xung đột sắc tộc và tôn giáo trong lịch sử – điều mà nhiều quốc gia hiện đại vẫn ao ước.
Nguồn: https://baovanhoa.vn/van-hoa/di-san-song-dong-ket-noi-cong-dong-119822.html